1.2.2. Đặc điểm của bảo vệ quyền tự do kinh doanh
- Quyền tự do kinh doanh được bảo vệ bởi toàn bộ hệ thống pháp luật nước ta
Toàn bộ hệ thống pháp luật của nước ta bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật, mục tiêu, định hướng pháp luật đều đề cao vai trò vị trí của việc bảo vệ quyền tự do kinh doanh. Trong hệ thống các quy phạm pháp luật đều ghi nhận quyền của chủ thể khi tham gia các hoạt động kinh doanh, các biện pháp bảo vệ quyền tự do kinh doanh khi bị xâm phạm. Bên cạnh đó, mục tiêu và định hướng của pháp luật của nước ta hiện nay là hướng tới một xã hội pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền công dân và quyền con người, mặt khác bảo vệ quyền tự do kinh doanh là một bộ phận hợp thành của quyền công dân, do đó có thể khẳng định rằng quyền tự do kinh doanh được bảo vệ bởi toàn bộ hệ thống pháp luật của nước ta.
- Quyền tự do kinh doanh được bảo vệ bởi hệ thống pháp luật chuyên ngành
Ngoài việc quyền tự do kinh doanh được bảo vệ bởi toàn bộ hệ thống pháp luật như đã trình bày ở trên thì đối với mỗi ngành luật riêng biệt, quyền năng này cũng được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong Hiến pháp, quyền tự do kinh doanh được xác định là một quyền hiến định, pháp luật hình sự quy định về tội phạm và những hình phạt nghiêm khắc đối với các chủ thể có hành vi cấu thành tội danh xâm phạm đến quyền tự do kinh doanh. Ngành luật hành chính quy định biện pháp bảo vệ quyền tự do kinh doanh khi có hành vi xâm phạm đến nhóm quyền này. Pháp luật về kinh tế hiện nay cho phép nhiều đối tượng tham gia hoạt động kinh doanh, có quyền lựa chọn các hình thức, địa điểm, mô hình kinh doanh, tự do giao kết, thực hiện hợp đồng, tự lựa chọn phương pháp giải quyết tranh chấp.
- Bảo vệ quyền tự do kinh doanh có sự tham gia của hệ thống các cơ quan nhà nước gồm cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp
Thứ nhất, trong hoạt động lập pháp thì Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, đại diện cho quyền lực nhân dân, Quốc hội ban hành pháp luật để
điều chỉnh mọi quan hệ xã hội trong đó có nhóm quan hệ về bảo vệ quyền tự do kinh doanh.
Bên cạnh đó, việc bảo vệ quyền tự do kinh doanh của các cơ quan quyền lực còn thể hiện ở chức năng giám sát các cơ quan khác. Các cơ quan hành chính, tư pháp ở trung ương có trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội về hoạt động của mình. Ở địa phương thì Ủy ban nhân dân các cấp, Tòa án trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ được giao có trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình trước cơ quan quyền lực ở địa phương.
Thứ hai, trong hoạt động thi hành pháp luật thì các cơ quan hành chính trong phạm vi quyền hạn của mình có trách nhiệm hướng dẫn và thi hành các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền tự do kinh doanh. Hơn nữa, các cơ quan hành chính được trao nhiệm vụ đại diện cho Nhà nước tham gia vào quản lý xã hội trong từng lĩnh vực cụ thể ví dụ như: cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan Công an, Hải quan… đều có trách nhiệm duy trì và bảo vệ quyền tự do kinh doanh của công dân.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Việt Nam - 1
- Bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Việt Nam - 2
- Khái Niệm Và Các Thiết Chế Bảo Vệ Quyền Tự Do Kinh Doanh Trong Pháp Luật Việt Nam
- Bảo Vệ Quyền Tự Do Kinh Doanh Trong Định Hướng Kinh Tế Thị Trường Của Trung Quốc
- Thực Trạng Quy Định Của Pháp Luật Về Bảo Vệ Quyền Tự Do Thành Lập Doanh Nghiệp
- Thực Trạng Quy Định Của Pháp Luật Về Bảo Vệ Quyền Tự Do Định Đoạt Trong Việc Giải Quyết Các Tranh Chấp Kinh Tế
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
Thứ ba, trong lĩnh vực bảo vệ pháp luật các cơ quan như Tòa án, Viện kiểm sát có trách nhiệm Nhân danh nhà nước đưa ra các phán quyết, các quyết định để bảo vệ quyền tự do kinh doanh. Bên cạnh đó, các cơ quan này còn ban hành những văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn trình tự, thủ tục, đường lối xét xử để các chủ thể khác căn cứ vào đó có quyền đưa ra yêu cầu để cơ quan xét xử bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi bị xâm phạm.
- Sự tham gia của các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, của cá nhân trong hoạt động bảo vệ quyền tự do kinh doanh
Các tổ chức khác trong phạm vi và quyền hạn của mình có trách nhiệm tham gia bảo vệ quyền tự do kinh doanh bằng cách:
Các tổ chức này có thể tham gia đóng góp ý kiến đối với các dự thảo luật, có quyền đưa ra các yêu cầu kiến nghị đối với các cơ quan nhà nước về
các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong giai đoạn hiện nay những tổ chức nghề nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền tự do kinh doanh, những tổ chức này trong phạm vi quyền hạn của mình có thể dùng các biện pháp khác nhau như khởi kiện, khiếu nại, đưa ra các ý kiến để bảo vệ quyền tự do kinh doanh.
Bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật hiện hành thì cá nhân có thể bảo vệ quyền tự do kinh doanh bằng cách: tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật, khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm của cá nhân, cơ quan, tổ chức nếu những chủ thể này xâm phạm đến quyền tự do kinh doanh.
1.2.3. Ý nghĩa của bảo vệ quyền tự do kinh doanh
Bảo vệ quyền tự do kinh doanh suy đến cùng là bảo vệ quyền con người, đảm bảo cho cá nhân được tự do mưu cầu hạnh phúc, phát huy hết năng lực bản thân làm giàu cho gia đình và xã hội. Nó là một trong những tiêu chí để đánh giá mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, chỉ có một chế độ chính trị dân chủ thực sự thì quyền con người mới được bảo vệ. Đồng thời, bảo vệ quyền tự do kinh doanh cũng chính là đòn bẩy để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Không thể có kinh tế thị trường nếu như kinh doanh không được chú trọng, sự lột xác của nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua là minh chứng hùng hồn nhất của việc mở rộng, bảo đảm quyền tự do kinh doanh.
- Ý nghĩa về mặt chính trị
Thứ nhất, bảo vệ quyền tự do kinh doanh thể hiện sự tự do dân chủ trong xã hội.
Xét dưới góc độ chính trị thì bảo vệ quyền tự do kinh doanh là “một trong những biểu hiện của chế độ tự do, dân chủ, bình đẳng - những khái niệm được coi là nền tảng triết lý của xã hội tiến bộ” [9, tr. 43]. Quyền tự do kinh doanh là một bộ phận cấu thành nên quyền tự do dân chủ, việc ghi nhận và bảo vệ quyền tự do kinh doanh góp phần tạo nên những đảm bảo về mặt pháp lý cho việc bảo vệ quyền con người.
Thứ hai, thể hiện được sự phù hợp giữa đường lối, chủ trương và pháp luật với kinh tế.
Việc bảo vệ quyền tự do kinh doanh thể hiện sự phù hợp giữa pháp luật và kinh tế. Quyền tự do kinh doanh không thể có cơ hội phát triển trong một xã hội hỗn độn, không có trật tự. Pháp luật là hành lang pháp lý quan trọng nhất để bảo vệ nhóm quyền này.
Thứ ba, thể hiện được sự đúng đắn của con đường đổi mới, khẳng định được niềm tin của công dân vào Nhà nước.
Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, trước bối cảnh nền kinh tế đất nước gặp muôn vàn khó khăn, có nhiều nghi vấn xung quanh việc liệu Việt Nam có đủ sức mạnh để vượt qua khủng hoảng và hoàn thành định hướng xã hội chủ nghĩa hay không? Bằng hàng loạt hành động, dưới sự lãnh đạo Đảng và Nhà nước, kết hợp với sức mạnh của dân tộc đã giải đáp câu hỏi đó, đưa đất nước có những bước tiến mới, đảm bảo đời sống nhân dân ấm no, từng bước giải quyết khó khăn. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có những quyết sách mang tính chiến lược, nhằm bảo vệ, cổ vũ quyền tự do kinh doanh góp phần không nhỏ vào công cuộc đổi mới. Củng cố thêm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội.
- Ý nghĩa về mặt kinh tế
Chúng ta phải khẳng định rằng: không có tự do kinh doanh thì không thể có sự phát triển kinh tế. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rõ nét việc này, trong các triều đại phong kiến trước đây, chúng ta chủ yếu sử dụng chính sách phát triển kinh tế “trọng nông, ức thương”, tầng lớp thương nhân thường bị coi là “con buôn”, là tầng lớp không được coi trọng trong xã hội. Với lối tư duy như vậy nên ở nước ta các thành phố không thể phát triển mạnh để trở thành các trung tâm thương mại, các hoạt động sản xuất, lối sống của các thành phố này không khác xa là mấy so với nông thôn.
Gần đây nhất đó là thời kỳ kinh tế tập trung, bao cấp, mọi hoạt động kinh doanh đều rất hạn chế, các doanh nghiệp chủ yếu do Nhà nước quản lý, hoạt động sản xuất đều do Nhà nước chi phối, thành phần kinh tế tư nhân không có điều kiện để phát triển, điều này dẫn đến thực trạng đó là nền kinh tế đất nước bị tụt hậu nghiêm trọng so với các quốc gia trong khu vực.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới thực chất là phát huy và mở rộng dân chủ đời sống xã hội nói chung, đời sống kinh tế nói riêng, mà biểu hiện cụ thể và sinh động là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh, nền kinh tế nước ta có nhiều khởi sắc về thế và lực.
Như vậy, từ những phân tích, đánh giá nêu trên, chúng ta có thể thấy được vai trò và sức mạnh của việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh. Một trong những tiền đề đưa đến những thay đổi hiện nay của nền kinh tế Việt Nam chính là việc đề cao quyền tự do kinh doanh, các chủ thể được phép kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm.
1.3. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN BẢO VỆ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH
Qua nghiên cứu ở mức khái quát có thể nhận thấy bảo vệ quyền tự do kinh doanh nói riêng và quyền tự do của con người nói chung phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm các vấn đề sau đây.
1.3.1. Thể chế chính trị
Trong lịch sử nhân loại từ khi có nhà nước đến nay, giai cấp thống trị đã dùng nhiều “phương pháp và thủ đoạn để thực hiện quyền lực nhà nước” [9, tr. 37]. Suy đến cùng thì Nhà nước là hình thức (phương thức) tổ chức xã hội có giai cấp, là tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt, có chức năng quản lý xã hội để phục vụ lợi ích cho giai cấp thống trị và thực hiện những hoạt động chung nảy sinh từ bản chất của xã hội. Bởi vậy, ở thể chế chính trị nào thì giai cấp thống trị cũng đưa ra những chính sách nhằm bảo vệ địa vị thống trị của giai cấp mình. Đối với chế độ dân chủ thì quyền con người, quyền
công dân được chăm lo và bảo vệ. Ngược lại với chế độ phản dân chủ thì quyền con người bị xem nhẹ và không được pháp luật bảo vệ. Đối với nước ta hiện nay, nhận thức một cách đầy đủ, khách quan và toàn diện Đảng và Nhà nước đã chăm lo sâu sắc đến đời sống của nhân dân, mở rộng các quyền tự do dân chủ, trong đó có quyền tự do kinh doanh. Tại Điều 57 Hiến pháp năm 1992 đã quy định: "Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật" [32]. Như vậy, thể chế chính trị là nhân tố tiên quyết và có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền cơ bản của con người nói chung và quyền tự do kinh doanh nói riêng, không có một chế độ tiến bộ thì không có một xã hội dân chủ.
1.3.2. Cơ chế quản lý kinh tế
“Cơ chế kinh tế là phương thức vận động của nền kinh tế, nó mang tính khách quan. Cơ chế quản lý kinh tế là phương thức tác động của Nhà nước do đó nó mang tính chủ quan. Nhà nước tác động vào nền kinh tế thông qua cơ chế kinh tế chứ không trực tiếp tác động vào nền kinh tế” [9, tr. 39].
Trước đây chúng ta duy trì chế độ kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, Nhà nước chỉ thừa nhận hai hình thức sở hữu là sở hữu tập thể và sở hữu toàn dân. Nhà nước nghiễm nhiên trở thành một ông chủ lớn, quản lý mọi mặt của việc kinh doanh. Do đó, trong cơ chế quản lý tập trung, bao cấp, quyền tự do kinh doanh của công dân không được thừa nhận và bảo vệ. Hậu quả đó là một nền kinh tế trì trệ, lạc hậu, đời sống nhân dân không được chăm lo đúng mức. Cùng với việc phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, diện mạo kinh tế của Việt Nam đã có sự thay đổi nhanh chóng. Chúng ta đã tiến hành đổi mới toàn diện, nền kinh tế thị trường dưới định hướng xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng cơ bản sau:
- Quan hệ giữa các chủ thể kinh tế mang hình thức tiền tệ.
- Các nguồn lực được phân bổ khách quan thông qua các tác động của quy luật thị trường gồm: quy luật giá trị, quy luật giá trị gia tăng, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu.
- Giá trị gia tăng, lợi nhuận tối đa trở thành động lực bên trong chi phối các hoạt động của doanh nghiệp.
- Đa dạng hóa các hình thức sở hữu, mở cửa hội nhập nền kinh tế, kinh tế thị trường có đặc trưng riêng về văn hóa.
Sự thay đổi cơ chế quản lý kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến sự phát triển nền kinh tế của đất nước. Các quyền tự do kinh doanh của công dân được thừa nhận và bảo vệ - Điều này được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992. Quy định của Hiến pháp đã được cụ thể hóa bằng Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã khẳng định những bảo đảm của nhà nước đối với chủ sở hữu doanh nghiệp:
Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của các loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật này; bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế; thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp của hoạt động kinh doanh [40, Điều 5].
Như vậy, qua trình bày nêu trên chúng ta có thể thấy được cơ chế quản lý kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do kinh doanh của công dân.
1.4. BẢO VỆ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH TRONG PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC, NHỮNG KINH NGHIỆM VIỆT NAM CÓ THỂ TIẾP THU
1.4.1. Bảo vệ quyền tự do kinh doanh trong Bộ luật Dân sự Nhật Bản
Bộ luật Dân sự Nhật Bản có hiệu lực từ năm 1889 là văn bản pháp luật tổng hợp gồm các quy định pháp luật cơ bản, quan trọng nhất trong quan hệ dân sự. Việc soạn thảo Bộ luật Dân sự bắt đầu từ những năm đầu tiên của triều đại Meyji (từ 1868 - 1912). Ngày 16/6/1898 Bộ luật Dân sự có hiệu lực pháp luật. Bộ luật này được sửa đổi bổ sung vào năm 1899, năm 1947, năm 1962, năm 1971, Bộ luật này bao gồm 5 phần: Phần chung, Quyền về tài sản, Nghĩa vụ, Gia đình và thừa kế.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, xin được đánh giá về một số quy định liên quan đến hình thức hợp đồng và việc giải thích "trật tự công, đạo đức xã hội" So sánh hai quy định này với các quy định tương ứng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005 nhằm thấy được sự khác biệt căn bản.
Thứ nhất, quy định về hình thức giao dịch trong pháp luật dân sự Nhật Bản.
Xét từ góc độ hình thức thể hiện ý chí thì giao dịch dân sự có thể chia thành giao dịch có hình thức bắt buộc và giao dịch không có hình thức bắt buộc. Loại thứ nhất là các giao dịch phải được thể hiện bằng hình thức văn bản hoặc theo hình thức khác, loại thứ hai có thể có bất kỳ hình thức nào và quan trọng là có tồn tại sự thể hiện ý chí. Nguyên tắc tự do giao dịch dân sự được thừa nhận cả việc lựa chọn hình thức giao kết. Mặc dù Nhà nước yêu cầu tuân thủ hình thức đặc biệt thì giao dịch pháp lý vẫn hoàn toàn có đặc điểm chung là không theo một hình thức bắt buộc nào. Ngày nay có một số giao dịch phải có hình thức nhất định nhằm lưu ý các bên thận trọng hơn khi giao dịch và nhằm đảm bảo tính rõ ràng của giao dịch ví dụ như: Kết hôn (Điều 739 Bộ luật Dân sự), Di chúc (Điều 976), Điều lệ của doanh nghiệp (Điều 37), Văn bản thành lập doanh nghiệp (Điều 39)…
Bộ luật Dân sự Nhật Bản và pháp luật chuyên ngành đã quy định rõ đối với loại giao dịch nào phải tuân theo hình thức cụ thể. Điều này khác biệt so với dân luật của Việt Nam đã không quy định cụ thể loại giao dịch nào buộc phải theo hình thức, bởi vậy trên thực tế xét xử có rất nhiều hợp đồng Tòa án buộc phải tuyên vô hiệu khi có vi phạm về hình thức.
Thứ hai, giao dịch dân sự vi phạm trật tự công cộng và đạo đức xã hội.
Trong pháp luật dân sự của Nhật Bản đã dựa vào án lệ và khoa học pháp lý để xác định được phạm vi của hành vi "vi phạm đạo đức", ví dụ như các hành vi sau đây: Vi phạm nguyên tắc đạo đức; vi phạm nguyên tắc công