Hạn Chế Về Trình Tự, Thủ Tục Giải Quyết Bồi Thường

cứng nhắc vô hình chung gây bất lợi cho người bị thiệt hại, không bảo đảm tối đa quyền yêu cầu bồi thường của họ trong một số trường hợp khi một mặt người bị thiệt hại vừa phải chịu thiệt hại do cơ quan công quyền gây ra, mặt khác lại phải đơn phương thu thập các giấy tờ hợp lệ để chứng minh mình bị thiệt hại và yêu cầu chính cơ quan công quyền gây ra thiệt hại cho mình phải giải quyết bồi thường. Để thực hiện được quyền con người của mình trong pháp luật về BTNN, người dân bị thiệt hại bắt buộc phải có được căn cứ chứng minh được quyết định hành chính, hành vi hành chính của công chức cơ quan đó là trái pháp luật trong quá trình thi hành công vụ mà không được yêu cầu bồi thường thẳng tới cơ quan cho rằng đã gây ra thiệt hại cho mình. Vậy văn bản đó ở đâu? Làm thế nào để có được? Ai có thẩm quyền cấp? Nội dung như thế nào? Đối với người dân quả là một điều vô cùng khó khăn để có được văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ theo đúng quy định tại Điều 4 Luật TNBTCNN. Việc quy định cần có văn bản xác định thuộc phạm vi TNBTCNN đã dẫn đến việc buộc người dân phải đi yêu cầu cơ quan nhà nước chứng minh lỗi của chính cơ quan đó. Để có được những văn bản đó, người bị thiệt hại phải xác định được về các loại văn bản có giá trị để làm căn cứ thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình trong từng lĩnh vực cụ thể, văn bản đó lại được quy định một cách cụ thể, khác nhau bao gồm: văn bản Quyết định giải quyết khiếu nại được quy định tại Luật Khiếu nại 2011; Kết luận nội dung tố cáo được quy định tại Luật Tố cáo 2011; Bản án, quyết định của Tòa án giải quyết vụ án hành chính được quy định tại Luật Tố tụng hành chính 2010; Bản án, quyết định của Tòa án giải quyết vụ án dân sự được quy định tại Bộ luật TTDS 1994 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011) và Bản án, quyết định hình sự của Tòa án được quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2003.

Như vậy, về mặt lý thuyết các văn bản nêu trên đã bao gồm hầu hết là

văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ. Tuy nhiên, vẫn còn có một số trường hợp mà cơ quan nhà nước tiến hành ban hành mặc dù có chứa đựng những nội dung xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ nhưng không có hình thức theo pháp luật quy định. Do đó, dẫn đến việc gây khó khăn cho người bị thiệt hại trong việc yêu cầu bồi thường.

Ví dụ điển hình trong hoạt động quản lý hành chính là vụ việc của ông

H.N.L yêu cầu UBND huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh bồi thường thiệt hại do việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra trong lĩnh vực quản lý sử dụng đất và công trình xây dựng theo Quyết định số 430 năm 2008 và bị áp dụng biện pháp cưỡng chế để thi hành QĐ số 430 theo QĐ số 155 năm 2011. Do không đồng ý với hai QĐ nêu trên, ông L đã khởi kiện vụ án hành chính tới Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long để yêu cầu hủy bỏ các Quyết định số 430 và 155, tuy nhiên, các yêu cầu không được chấp nhận do trước đó UBND huyện Vân Đồn đã ban hành các QĐ số 247 và 248 hủy bỏ các QĐ số 430 và 155 nêu trên do ban hành trái thẩm quyền. Không đồng ý, ông L đã kháng cáo theo trình tự phúc thẩm và bản án phúc thẩm 05/2013/HCPT của TAND tỉnh Quảng Ninh đã nhận định, theo đó, chấp nhận hủy QĐ số 430 và 155 của Chủ tịch UBND huyện Vân Đồn là trái pháp luật và tách yêu cầu khởi kiện đòi bồi thường của ông L để giải quyết sau bằng vụ án dân sự nếu có yêu cầu.

Như vậy, với vụ việc nêu trên đã phát sinh tình huống có thể coi là văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ mà pháp luật chưa quy định, đó là văn bản của một CQNN tự hủy bỏ, hoặc thu hồi văn bản do chính mình ban hành trước đó. Đặt giả thiết nếu pháp luật đã có quy định về văn bản này thì có lẽ ông L không phải thực hiện thêm thủ tục khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu UBND Phường BC bồi thường cho mình

Ví dụ khác trong lĩnh vực thi hành án dân sự, là vụ việc của bà L.T.H yêu cầu Chi cục THADS TP Cà Mau bồi thường do việc tổ chức cưỡng chế kê biên căn nhà chung của hai vợ chồng bà đang thế chấp để vay vốn để thực hiện nghĩa vụ thi hành án năm 1999 là trái pháp luật. Ngôi nhà này bán đấu giá thành cho bà A với số tiền 305.000.000 đồng và bà A đã nộp đủ số tiền mua nhà và phí bán đấu giá cho Nhà nước. Cho rằng Chi cục THADS Cà Mau có sai phạm trong quá trình kê biên, bán đấu giá tài sản do bán cả phần tài sản của chồng bà, do đó, bà H đã nhiều lần khiếu nại. Quá trình khiếu nại của bà H từ năm 1999 không được giải quyết dứt điểm do không có sự thống nhất giải quyết giữa các cơ quan liên quan. Để đánh giá, xem xét lại quá trình tổ chức thi hành án, Thanh tra Bộ Tư pháp đã tiến hành thanh tra vụ việc, theo đó, Kết luận thanh tra số 04 của Thanh tra Bộ đã kết luận 3 sai phạm của cơ quan thi hành án TP Cà Mau trong quá trình tổ chức thi hành án. Tuy nhiên, quyết định thanh tra việc giải quyết khiếu nại tuy có nội dung giải quyết khiếu nại và xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ, nhưng bà H vẫn không có đủ căn cứ để thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình do văn bản này không phải là loại văn bản được quy định theo pháp luật về BTNN mặc dù nội dung là giống nhau.

Bên cạnh những quy định bó hẹp về loại văn bản này nêu trên, thực trạng cho thấy nhiều cơ quan nhà nước đã hiểu một cách máy móc là trong văn bản đó phải có cụm từ “xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ” thì văn bản đó mới được coi là văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ.

Ví dụ như vụ việc bà T.T.H yêu cầu Chi cục Thuế TP Vinh, tỉnh Nghệ An bồi thường vào năm 2011 vì cho rằng cơ quan này đã thu tiền sử dụng đất trái pháp luật của bà, trong khi đó, bà H là con liệt sỹ nên theo quy định tại

Nghị định số 198/2004/NĐ-CP thì gia đình của bà thuộc diện được giảm 70% tiền sử dụng đất nhưng Chi cục Thuế TP Vinh vẫn thu của gia đình bà 100% số tiền sử dụng đất. Gia đình bà H đã khiếu nại nhiều lần nhưng khiếu nại không được chấp nhận, do đó, bà khởi kiện yêu cầu TAND tp Vinh giải quyết vụ án hành chính. TAND tp Vinh đã xét xử và quyết định buộc Chi cục Thuế tp Vinh hoàn trả cho gia đình bà H số tiền 148.879.500 đồng mà gia đình bà đã nộp theo thông báo nộp tiền sử dụng đất. Ngày 07/8/2011, bà H đã có đơn yêu cầu bồi thường tới Chi cục Thuế tp Vinh nhưng không được thụ lý với lý do bà không đủ điều kiện bồi thường theo quy định của Luật TNBTCNN và bản án của TAND tp Vinh không khẳng định hành vi của cán bộ Chi cục Thuế tp Vinh là trái pháp luật. Trường hợp này, bản án hành chính sơ thẩm của TAND tp Vinh chính là văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ và là căn cứ để bà H yêu cầu bồi thường theo quy định của Luật TNBTCNN nhưng vì không hiểu biết pháp luật nên bà Hồng lại tiếp tục khiếu nại, và đến nay, đã được giải quyết bồi thường theo quy định.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

Ngoài vấn đề nêu trên xuất phát từ phía các cơ quan Nhà nước, thì ngược lại, thực tế cho thấy nhiều cơ quan Nhà nước thường gặp phải đó là người bị thiệt hại lạm dụng quyền yêu cầu bồi thường để yêu cầu cơ quan Nhà nước bồi thường mà không xác định được căn cứ yêu cầu bồi thường, vụ việc có thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước hay không và thời hiệu yêu cầu bồi thường ra sao. Hoặc có trường hợp khác là dù đã có văn bản xác định hành vi trái pháp luật theo đúng quy định của pháp luật nhưng người bị thiệt hại vẫn không biết việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình như thế nào.

Ví dụ như trong vụ việc của ông N.T.C, tỉnh Bắc Giang yêu cầu Tòa Phúc thẩm TANDTC bồi thường do việc ra bản án phúc thẩm tuyên ông C phải chịu hình phạt tù 10 năm do phạm tội giết người. Tuy nhiên, khi kẻ phạm

Bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách nhiệm bồi thường nhà nước ở Việt Nam - 9

tội thực sự ra đầu thú, ông C đã được minh oan và Cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an đã ra quyết định đình chỉ điều tra bị can với ông C và trường hợp của ông thuộc phạm vi được Nhà nước bồi thường theo quy định tại Điều 26 Luật TNBTCNN. Quyết định đình chỉ điều tra này được coi là văn bản xác định hành vi trái pháp luật, và là căn cứ để ông thực hiện quyền yêu cầu bồi thường. Tuy nhiên, cho đến nay, do không hiểu biết về quyền của mình nên ông C vẫn chưa thực hiện quyền yêu cầu bồi thường tới Tòa Phúc thẩm dù Tòa Phúc thẩm đã nhiều lần hướng dẫn ông theo quy định.

Bên cạnh đó, có tồn tại hay không việc câu kết giữa cơ quan có trách nhiệm bồi thường và người bị thiệt hại nhằm khi ban hành văn bản xác định hành vi trái pháp luật để trục lợi từ tiền bồi thường của Nhà nước. Trên thực tế, có một ví dụ như sau về trường hợp này: đó là vụ việc Chi cục THADS huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh bồi thường cho ông V.H.H, tỉnh Tây Ninh. Theo đó, quyết định cử người đại diện ngày 22/8/2012 của Chi cục THADS huyện Hòa Thành và Quyết định thành lập Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả giải quyết bồi thường ngày 22/3/2013 đều có đề cập đến Quyết định giải quyết khiếu nại ngày 17/02/2011 của Chi cục Trưởng về vụ việc của ông

H. Tuy nhiên, thực tế quyết định này lại đề ngày 27/8/2012. Như vậy, việc một quyết định được ban hành trước căn cứ vào một quyết định ban hành sau là không có hiệu lực và giá trị thi hành. Việc thương lượng bồi thường xảy ra trước khi có quyết định giải quyết khiếu nại và trước khi có quyết định cử người đại diện. Như vậy đối với vụ việc này, từ trước tới nay thì có tới 03 thời điểm ban hành cho cùng một quyết định giải quyết khiếu nại – là văn bản xác định hành vi trái pháp luật theo quy định của Luật TNBTCNN. Vậy, có điều gì khuất tất? Hay điều này đang phản ánh một thực trạng không nhỏ các vụ việc được bồi thường đang được thực hiện theo cách này để trục lợi?

2.2.2.4. Hạn chế về thời hiệu yêu cầu bồi thường

Luật TNBTCNN quy định thời hiệu yêu cầu bồi thường là “02 năm, kể

từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật” [44, tr.2]. Tuy nhiên, trên thực tế, trong nhiều trường hợp người bị thiệt hại phải rất nhiều ngày sau khi ban hành văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ họ mới thực tế nhận được văn bản đó. Trong khi Luật TNBTCNN lại quy định thời điểm để tính thời hiệu là “từ ngày có văn bản” [44, tr.2]. Quy định như vậy sẽ có thể dẫn đến nhiều trường hợp người bị thiệt hại không biết là có văn bản và đến khi biết hoặc nhận được văn bản thì họ đã hết quyền yêu cầu bồi thường do hết thời hiệu yêu cầu bồi thường.

2.2.2.5. Hạn chế về trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường

a) Về xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường

Trên thực tế, việc xác định cơ quan có TNBT, đặc biệt là trong hoạt động TTHS là vô cùng phức tạp và khó khăn do pháp luật về BTNN quy định không rõ ràng về TNBT của Viện kiểm sát và Tòa án tại Điều 31 và Điều 32 Luật TNBTCNN. Bởi lẽ, quy trình tố tụng là một quy trình vòng tròn, từ việc điều tra, truy tố rồi xét xử, rồi lại điều tra lại hoặc điều tra bổ sung, truy tố, xét xử. Điều này dẫn đến một hệ quả là khi điều tra, truy tố, xét xử oan sai cho người bị thiệt hại, nút thắt không được tháo gỡ khi Luật không quy định rõ đến giai đoạn nào thuộc TNBT của cơ quan nào. Do đó, khi người bị thiệt hại có đơn yêu cầu bồi thường, để xác định cơ quan có TNBT, các cơ quan tiến hành tố tụng lại phát sinh tâm lý đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.

Ví dụ, trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành truy tố, xét xử oan sai cho ông N.K.C, Nam Định, theo đó, trường hợp này khó xác định được TNBTCNN thuộc trách nhiệm của cơ quan nào, thuộc trường hợp được bồi thường của Tòa án theo quy định tại Điều 31 Luật TNBTCNN hay thuộc trách nhiệm bồi thường của Viện kiểm sát theo Điều 32 của Luật. Điều đó dẫn đến việc xác định cơ quan có TNBT là rất khó khăn bởi lẽ nếu

Luật TNBTCNN quy định theo hướng cơ quan gây ra sai phạm cuối cùng là cơ quan có TNBT như quy định của Nghị quyết 388 trước đây thì việc giải quyết vụ việc này và các vụ việc khác tương tự sẽ trở nên rõ ràng và đơn giản hơn rất nhiều.

Trong hoạt động thi hành án dân sự, việc xác định cơ quan có TNBT khi gây ra thiệt hại trong quá trình bán đấu giá tài sản là rất khó khăn. Bởi lẽ, cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan thực hiện việc thi hành theo nghĩa vụ bản án. Nếu người phải thi hành án không có điều kiện để thực hiện đóng các nghĩa vụ thi hành án, thì cơ quan thi hành án đương nhiên phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy đinh của Luật THADS năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành để giải quyết. Nếu tài sản bị cưỡng chế là nhà, thì theo quy định, cơ quan thi hành án phải ủy quyền cho trung tâm bán đấu giá tài sản bán tài sản đó để thi hành án mà không được tự ý bán đấu giá tài sản có giá trị lớn. Như vậy, việc bán đấu giá tài sản nếu có sai phạm thì cơ quan có TNBT là cơ quan THADS hay Trung tâm bán đấu giá tài sản. Điều này cũng không được quy định rõ ràng trong Luật, gây khó khăn trong việc xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Và người bị thiệt hại, là người ở giữa, chịu nhiều tổn thất về tài sản và tổn thương về tinh thần, nguyên nhân chính, lại xuất phát từ sự thiếu hụt các quy định do Luật không quy định rõ ràng.

b) Cơ quan có TNBT không thụ lý đơn yêu cầu bồi thường

Trong thời gian qua, thực tế ở một số địa phương, trong hầu hết các lĩnh vực, khi người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường mà cơ quan có thẩm quyền không thụ lý đơn, ngoài việc người bị thiệt hại khiếu nại với Thủ trưởng cơ quan đó việc không thụ lý đơn theo quy định tại Điều 8 TTLT số 06 mà không được giải quyết khiếu nại thì người dân bế tắc, không biết phải thực hiện quyền của mình như thế nào. Bởi pháp luật không quy định người bị thiệt hại có quyền khởi kiện thẳng ra toà án để yêu cầu giải quyết bồi thường

theo trình tự TTHC hoặc TTDS để giải quyết mà bắt buộc phải thực hiện việc giải quyết bồi thường thông qua thủ tục thương lượng. Trường hợp khởi kiện thẳng ra Toà án sẽ bị từ chối thụ lý yêu cầu bồi thường theo đúng quy định của pháp luật hiện hành vì yêu cầu bồi thường không theo đúng trình tự, thủ tục Luật định. Trên thực tế, đối với các lĩnh vực khác, việc người bị thiệt hại phải tìm cách chứng minh có thiệt hại thực tế xảy ra, kèm theo chứng cứ, tài liệu là điều dễ hiểu. Việc này phục vụ cho việc xác minh mức bồi thường của cơ quan có TNBT được dễ dàng và thuận lợi hơn. Tuy nhiên, trong hoạt động TTHS, thiệt hại thực tế xảy ra là việc bắt giam, tạm giam và rõ ràng thực tế đó không cần thiết phải chứng minh. Có thể coi việc chứng minh này là một thủ tục rườm rà, phức tạp và máy móc. Người dân đã bị oan ức, lại phải tự chứng minh nỗi oan của mình; nếu không, sẽ không thực hiện được quyền yêu cầu bồi thường của mình.

c) Vướng mắc nhiều trong thủ tục thương lượng việc bồi thường

Trong thủ tục này, có thể coi là một thủ tục mang tính bảo vệ quyền con người cao nhất xuyên suốt cả quá trình giải quyết bồi thường. Thông qua đó, người bị thiệt hại và cơ quan có TNBT cùng thỏa thuận về mức bồi thường trên cơ sở giấy tờ, tài liệu chứng minh thiệt hại mà người bị thiệt hại cung cấp và việc xác minh của cơ quan có TNBT những thiệt hại đó. Cả người bị thiệt hại lẫn CQNN đều có quyền định đoạt quyền và lợi ích của mình. Chính vì lẽ đó, thực tế đã phát sinh nhiều bất cập trong thủ tục này, có thể điểm ra những vướng mắc, tồn tại như sau:

Một là, nhiều vụ việc yêu cầu bồi thường đã được giải quyết không thông qua thủ tục thương lượng trực tiếp giữa người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại với người bị thiệt hại, mà người thi hành công vụ đã bỏ tiền của chính mình ra để chi trả cho những thiệt hại đó do tâm lý e ngại đến uy tín của

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 16/12/2022