Mục Đích Ban Đầu Khi Ban Hành Đao Luật Riêng Về Bồi Thường Nhà Nước Không Đạt Được

xâm phạm như vậy, bảo đảm việc không ai bị tra tấn hay bị áp dụng hình phạt nhục hình. Pháp luật Việt Nam về nhóm quyền này là một hệ thống pháp luật tiến bộ, đáp ứng các chuẩn mực quốc tế và ngày càng được hoàn thiện” [28,tr. 25]. Luật TNBTCNN có quy định về phạm vi được bồi thường trong hoạt động TTHS tại Điều 26 và liệt kê thiệt hại được bồi thường tại Điều 47 thiệt hại do tổn thất về tinh thần và Điều 51 về việc khôi phục danh dự cho người bị thiệt hại trong hoạt động TTHS, trong đó, những người bị Nhà nước gây ra thiệt hại liên quan đến việc hạ thấp nhân phẩm sẽ được Nhà nước bồi thường, công khai xin lỗi. Điều này là phù hợp với pháp luật quốc tế liên quan đến quyền sống của con người. Tuy nhiên, đối với quyền bất khả xâm phạm, Luật TNBTCNN còn có chỗ chưa phù hợp với pháp luật quốc tế ở chỗ chưa có quy định nào liên quan đến bồi thường trong trường hợp người dân bị chịu đựng hình phạt nhục hình, ép cung tàn bạo hay bị đối xử vô nhân đạo.

- Quyền tự do thân thể, không bị bắt, giam giữ tùy tiện, trái pháp luật là quyền cơ bản nhất của con người được nhân loại thừa nhận tại Điều 9 UDHR “không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tùy tiện” [27, tr.2] và được chi tiết hóa tại Điều 9 của ICCPR 1966. Pháp luật Việt Nam phù hợp với các chuẩn mực quốc tế liên quan đến quyền này “trừ trường hợp việc tước tự do đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà pháp luật đã quy định” [28, tr.31] và yêu cầu đảm bảo rằng việc bắt giữ đó phải được thông báo. Luật TNBTCNN bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan nếu bị tạm giữ, tạm giam, bị khởi tố, truy tố, xét xử theo quy định tại Điều 26 về phạm vi được bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự. Người bị oan sẽ được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật về BTNN và cơ quan có thẩm quyền gây oan sai phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, nhân phẩm cho người đó. Ngoài ra, người gây ra thiệt hại với lỗi cố ý sẽ phải hoàn trả cho Nhà nước một khoản tiền tương ứng với lỗi

và thiệt hại người đó gây ra. Như vây, quy định này của Luật TNBTCNN là phù hợp với pháp luật quốc tế liên quan đến tự do thân thể, không bị bắt, giam giữ tùy tiện, trái pháp luật của con người.

- Quyền về lao động, không bị lao động khổ sai, cưỡng bức được quy định tại Điều 8 ICCPR về không bị nô lệ, là một trong những quyền cơ bản về tự do và phẩm giá của con người. Pháp luật Việt Nam cũng đã ghi nhận và bảo đảm các quyền trên của công dân. Trong Luật TNBTCNN, phạm vi TNBTCNN trong hoạt động quản lý hành chính cũng quy định đối với trường hợp Nhà nước bồi thường nếu có hành vi trái pháp luật khi “áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người vào trường giáo dưỡng, đưa người vào cơ sở giáo dục hoặc đưa người vào cơ sở chữa bệnh” [44, tr.5]. Quy định này là hoàn toàn phù hợp với mục tiêu chung của pháp luật quốc tế liên quan đến nhóm quyền này cần phải được bảo vệ tối đa và tôn trọng đối với mọi nhà nước, mọi quốc gia.

- Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở và bí mật thư tín quy định tại Điều 17 ICCPR, trong đó, khẳng định “không ai bị can thiệp một cách tùy tiện hoặc bất hợp pháp vào đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở thư tín, hoặc bị xâm phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín” [54, tr.508]. Pháp luật Việt Nam không những ghi nhận và thể hiện sự tôn trọng đối với nhóm quyền này mà còn đề ra các biện pháp để bảo vệ. Luật TNBTCNN có quy định về trường hợp được Nhà nước bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự đối với trường hợp người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật đối với việc “áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án và cưỡng chế thi hành án” [44, tr.18] gây thiệt hại cho công dân theo Điều 38 về phạm vi TNBTCNN trong hoạt động thi hành án dân sự. Có thể thấy quy định này cũng phù hợp với pháp luật quốc tế liên quan đến nhóm quyền này.

Tóm lại, Việt Nam là thành viên của các điều ước quốc tế, do đó, có

nghĩa vụ thực hiện đầy đủ những chuẩn mực nhân quyền quốc tế tối thiểu và nội luật hóa vào Hiến pháp và pháp luật chuyên ngành. Pháp luật về TNBTCNN nói riêng về cơ bản phù hợp với các quy định của các Công ước quốc tế về quyền con người nói chung và Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 nói riêng. Với tính chất là công cụ pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Luật TNBTCNN đã góp phần tích cực vào việc bảo đảm quyền con người. Chế định pháp lý về BTNN này cũng đang từng bước được hoàn thiện để bảo đảm phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước.

Chương 3

GIẢI PHÁP BẢO VỆ VÀ THÚC ĐẨY

QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG CỦA NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.


Có thể thấy, cho đến thời điểm này, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước xây dựng và hoàn thiện nên một cơ chế hữu hiệu nhất từ trước đến nay về bồi thường Nhà nước. Từ khi chưa có đạo luật riêng cho đến lúc có một đạo luật riêng với tương đối đầy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành, mục đích là để bảo vệ tối đa các quyền con người về dân sự, chính trị, quyền được công bằng trước pháp luật, quyền được tự bảo vệ lợi ích của mình về tài sản, về tinh thần trước Nhà nước. Đồng thời, thể hiện mục đích đề cao tính dân chủ, tính tự chịu trách nhiệm của Nhà nước đối với nhân dân trong Nhà nước pháp quyền đi đôi với bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước. Để thấy, BTNN là một cụm từ không còn mấy xa lạ với cả hai bên, một bên là cán bộ, công chức thực thi công vụ của Nhà nước có khả năng gây thiệt hại, oan sai cho ngườn dân; một bên là cá nhân, tổ chức có khả năng bị thiệt haị do hành vi trái pháp luật của người thừa hành công vụ Nhà nước gây ra. Luật TNBTCNN được khẳng định đã thực sự đi vào cuộc sống sau 4 năm triển khai, thi hành. Những kết quả, thành tựu đạt được, có thể kể đến là những nỗ lực của Nhà nước trong việc ban hành một cơ chế về bồi thường nhà nước ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với trình độ kinh tế - xã hội, phù hợp hơn với xu thế chung của thế giới, phù hợp hơn với các văn bản luật mới được sửa đổi, bổ sung sau này và phù hợp với thể chế của một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Đồng thời, tinh thần cầu thị, dám chịu trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trước nhân dân ngày càng được thể hiện ở kết quả, số liệu các vụ việc được bồi thường và số tiền bồi thường, song song đó, việc các cơ quan Nhà nước

Bảo vệ quyền con người trong pháp luật trách nhiệm bồi thường nhà nước ở Việt Nam - 12

nghiêm khắc giáo dục, răn đe công chức vi phạm pháp luật thông qua số liệu, số tiền hoàn trả đã cho thấy một bộ máy Nhà nước ngày càng được ổn định, bền vững và chuyên nghiệp. Đối với người dân, việc ngày càng có nhiều đơn yêu cầu bồi thường, ngày càng có nhiều vụ việc được giải quyết bồi thường với số tiền bồi thường lớn thông qua thủ tục giải quyết bồi thường tại cơ quan có trách nhiệm bồi thường đã thể hiện lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước, thể hiện nhận thức và hiểu biết của nhân dân về pháp luật nói chung và pháp luật về BTNN nói riêng ngày càng được nâng cao, giúp người dân tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình trước hành vi trái pháp luật của một bộ phận người thừa hành công vụ, trước cơ quan Nhà nước và trước pháp luật.

Bên cạnh đó, mặc dù Luật TNBTCNN được ban hành đã thể hiện tính ưu việt so với các văn bản quy phạm pháp luật trước đó, đặc biệt, về cơ bản, Luật TNBTCNN đã hiện thực hóa được một trong những mục tiêu quan trọng là “thiết lập một cơ chế pháp lý mới, đồng bộ, hiệu quả để người bị thiệt hại thực hiện tốt hơn quyền được bồi thường của mình đối với những thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra” [9, tr.3]. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đến nay người bị thiệt hại vẫn gặp khó khăn trong việc thực hiện quyền yêu cầu của mình. Những khó khăn này không chỉ xuất phát từ thực tiễn thi hành mà còn từ chính một số quy định của Luật còn hạn chế, chưa phù hợp với thực tiễn. Thêm vào đó, người dân vẫn có tâm lý ngại va chạm với cơ quan chức năng và ngậm đắng nuốt cay chịu những oan ức mình phải gánh chịu. Có thể nói, tình hình yêu cầu bồi thường và giải quyết bồi thường chưa phản ánh đúng thực chất của vấn đề.

Xuất phát từ thực tế đó, giai đoạn hiện nay đặt ra việc cần từng bước hoàn thiện pháp luật và tạo cơ chế thuận lợi hơn cho người dân trong việc yêu cầu Nhà nước bồi thường những thiệt hại đã gây ra, và, cho cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện giải quyết bồi thường. Để đề xuất được những giải pháp

khắc phục những điểm còn hạn chế, bất cập của pháp luật cũng như việc áp dụng các quy định đó trên thực tiễn, cần phải hiểu việc ban hành đạo luật riêng về BTNN đã đạt được mục đích theo tinh thần Đảng và Nhà nước đề ra chưa? Qua đó, việc sửa đổi để hoàn thiện cơ chế này cần phù hợp với quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong từng thời kỳ nhất định.

3.1. Mục đích ban đầu khi ban hành đao luật riêng về bồi thường nhà nước không đạt được

Ban đầu, như đã đề cập tại chương I, Luật TNBTCNN được ban hành với 03 mục tiêu lớn là nhất thể hoá pháp luật về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra, khắc phục tình trạng tồn tại hai mặt bằng pháp lý về bồi thường thiệt hại trong hoạt động hành chính và tố tụng hình sự hiện nay; tạo cơ chế pháp lý mới, đồng bộ, hiệu quả để người bị thiệt hại thực hiện tốt hơn quyền được bồi thường của mình đối với những thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra; Nhà nước thực hiện tốt hơn trách nhiệm của mình trước công dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; và, xác định rõ TNBTCNN, trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại để một mặt, tạo thuận lợi cho người bị thiệt hại trong việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình, mặt khác, góp phần tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, của công chức trong quá trình thực thi công vụ.

Tuy nhiên, sau 4 năm triển khai thi hành Luật TNBTCNN thì “một số quy định của Luật đã bộc lộ những hạn chế, bất cập so với yêu cầu của thực tế và thiếu thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành” [24, tr.2]. Điều này dẫn đến việc không đạt được mục đích của Đảng và Nhà nước ta như mong muốn đối với đạo luật này, cụ thể là: cơ chế pháp lý chưa thực sự thống nhất, đồng bộ, tính hiệu quả không cao; người bị thiệt hại chưa được tạo điều kiện thuận lợi khi thực hiện quyền yêu cầu bồi thường đối với những

thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra. Bên cạnh đó, các quy định về mức hoàn trả đối với người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật chưa cao, chưa đủ sức răn đe, dẫn đến chưa thực sự tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, của công chức trong quá trình thi hành công vụ. Do đó, vấn đề đặt ra trong giai đoạn này là cần một cơ chế về BTNN với đầy đủ các quy định phù hợp với thực tế tình hình yêu cầu bồi thường của người dân và tình hình giải quyết yêu cầu bồi thường của các cơ quan Nhà nước thay thế cho cơ chế BTNN và các quy định như hiện nay trong Luật TNBTCNN.

3.2. Quan điểm về giải pháp sửa đổi, bổ sung Luật TNBTCNN

Theo những quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị thì việc quán triệt và thể chế hoá Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 là “Củng cố cơ sở pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng, ban hành kịp thời, đồng bộ và tổ chức thực thi các pháp luật, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội” [5, tr.4]. Học viên nhận thấy việc đề xuất các giải pháp để hoàn thiện cơ chế bồi thường Nhà nước theo quy định của Luật TNBTCNN và văn bản hướng dẫn thi hành cần bám sát chủ trương, đường lối này của Bộ Chính trị, để phù hợp với tình hình chính trị của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tiếp tục thực hiện chủ trương cải cách hành chính, cải cách tư pháp và phù hợp với tình hình kinh tế

- xã hội của đất nước. Điều này là hết sức cần thiết, bởi lẽ, một cơ chế bồi thường Nhà nước bảo vệ tối đa quyền con người, quyền công dân của một quốc gia, đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của nhân dân nhưng lại đi ngược với chủ trương, đường lối của đất nước, như vậy là thiếu tính phù hợp.

Bên cạnh đó, trọng tâm giải pháp để sửa đổi, bổ sung Luật cần gắn kết

chặt chẽ với việc thể chế hoá các quy định mới của Hiến pháp 2013 liên quan đến một số quy định về quyền, nghĩa vụ của công dân, phù hợp với tinh thần, nguyện vọng của cả dân tộc trong bản Hiến pháp mới này. Đồng thời, bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ của Luật TNBTCNN với các văn bản pháp luật khác có liên quan và sự phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước Việt Nam là thành viên.

Một điều cốt lõi khi đưa ra giải pháp để hoàn thiệt Luật TNBTCNN không thể không đề cập đến vấn đề cơ bản là việc cần phát huy hiệu quả những quy định của Luật TNBTCNN hiện hành và các văn bản hướng dẫn thi hành, theo đó, quy định cụ thể hơn những nội dung còn chưa rõ, chưa cụ thể; bổ sung những quy định mới để điều chỉnh những vấn đề mới phát sinh trên thực tiễn về bồi thường nhà nước; quy định hợp lý và chặt chẽ hơn về trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường cũng như cơ quan có trách nhiệm bồi thường để phúc đáp quyền yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại một cách tốt nhất; quy định phạm vi điều chỉnh theo hướng phù hợp hơn với điều kiện kinh tế xã hội cũng như với thực tế các thiệt hại đang có hiện nay nhằm xây dựng một khuôn khổ pháp luật có giá trị pháp lý cao, tương đối đồng bộ cho công tác bồi thường Nhà nước.

3.3. Một số giải pháp bảo đảm việc bảo vệ, thúc đẩy quyền con người trong pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở Việt Nam một cách hữu hiệu

3.3.1. Giải pháp hoàn thiện thể chế

Bên cạnh những mặt tích cực có thể dễ dàng thấy được thì Luật TNBTCNN cũng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, gây khó khăn cho cơ quan Nhà nước, và đặc biệt, làm hạn chế quyền con người về bảo vệ lợi ích của mình trong việc yêu cầu Nhà nước bồi thường trong các mặt như: phạm vi điều chỉnh chưa bao quát được các thiệt hại thực tế phát sinh do hành vi trái pháp luật của

Xem tất cả 124 trang.

Ngày đăng: 16/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí