Bộ luật TTHS 2003 không quy định về quyền, nghĩa vụ của người bị bắt; không sử dụng thuật ngữ người bị tình nghi phạm tội/ người bị buộc tội, tức là không thừa nhận về mặt pháp lý sự tồn tại của chủ thể này trong TTHS, không quy định về quyền, nghĩa vụ của chủ thể này… Trong thực tiễn điều tra, khởi tố, có rất nhiều người mà CQĐT có căn cứ nghi vấn họ là người thực hiện tội phạm, đã tiến hành xác minh nhân thân, quan hệ, hoạt động, việc sử dụng tài sản, thư tín, điện tín, điện thoại... nhưng chưa đủ căn cứ hoặc chưa khởi tố, bắt, giữ, giam họ. Những người này tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng những hoạt động điều tra của CQĐT đối với họ, nguy cơ xâm hại quyền con người của những người này hoàn toàn khác biệt với người làm chứng, người có quyền lợị, nghĩa vụ liên quan. Do Bộ luật TTHS không quy định quyền, nghĩa vụ của những chủ thể này, CQTHTT, NTHTT không có cơ sở pháp lý trực tiếp, cụ thể để xác định các quyền con người cần được bảo vệ của những chủ thể này và trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ các quyền của họ trong giai đoạn khởi tố, điều tra. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng quyền con người của người bị buộc tội nhưng chưa bị bắt, tạm giữ, khởi tố bị can, tạm giam bị xâm hại trong giai đoạn khởi tố, điều tra.
Căn cứ áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng, nhất là biện pháp ngăn chặn chưa đầy đủ. CQĐT, VKS có nhiều lựa chọn khi xem xét việc áp dụng biện pháp cưỡng chế với một người bị bị buộc tội. Do đó, những người bị buộc tội có cùng đặc điểm pháp lý nhưng có thể lại bị áp dụng biện pháp cưỡng chế khác nhau. Thậm chí trong cùng một vụ án, các đương sự, bị can có nhân thân giống nhau, cùng một hành vi nhưng lại bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác nhau. Quy định về thời hạn điều tra và tạm giam bị can trong giai đoạn điều tra còn nhiều điểm chưa hợp lý. Nhất là quy định về căn cứ, thời hạn tạm giam để điều tra bổ sung. Về mặt lý thuyết cũng như trên thực
tế, một bị can có thể bị tạm giam nhiều tháng, nhiều năm nếu vụ án bị trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần. Các quy định về việc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại, phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan sai do CQTHTT, NTHTT gây ra trong giai đoạn khởi tố, điều tra chưa đầy đủ, thiếu cơ chế để đảm bảo quyền này trên thực tế. Khi đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, có thể thấy còn nhiều quy định, chế tài về bảo vệ quyền con người mới dừng lại ở mức xác lập định hướng, tinh thần pháp luật, chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ và còn nhiều sơ hở. Bộ luật TTHS nên có quy định thành văn về trách nhiệm của CQTHTT, NTHTT trong việc bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, trong đó có quyền con người của đương sự, bị can; không được hạn chế, tước đoạt quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, bị can khi không cần thiết.
Bộ luật TTHS chưa đề cao vai trò trách nhiệm cá nhân của NTHTT trong việc thực hiện, quyết định việc thực hiện các hành vi, trình tự, thủ tục TTHS như ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyết định tạm giữ, lệnh bắt, khám xét.... Quy định của Bộ luật TTHS liên quan đến khởi tố, điều tra còn có những điểm chưa thống nhất, dễ dẫn đến các cách hiểu, áp dụng khác nhau: Điều 112 Bộ luật TTHS đề cập đến quyền khởi tố vụ án hình sự của VKS, quy định VKS có quyền: “Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can…”. Điều 104 Bộ luật TTHS quy định VKS (chỉ) có quyền khởi tố vụ án trong hai trường hợp: hủy quyết định không khởi tố vụ án không có căn cứ của CQĐT và trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của HĐXX tại phiên tòa. Như vậy, hai điều luật quy định khác nhau dẫn đến cách hiểu khác nhau về phạm vi thẩm quyền khởi tố vụ án của VKS.
Thứ hai, năng lực chuyên môn của NTHTT trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự còn nhiều hạn chế.
Trình độ, năng lực chuyên môn, tinh thần, ý thức trách nhiệm của NTHTT: TT, PTT, ĐTV, cán bộ điều tra CQĐT, VT, PVT, KSV VKS có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hiệu quả bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Quyền con người có được bảo vệ hay không phụ thuộc rất lớn vào nhận thức pháp luật, ý thức trách nhiệm của NTHTT trong khi thi hành công vụ. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng bắt người tùy tiện, không đúng trình tự, thủ tục tố tụng là do trình độ, năng lực của một bộ phận NTHTT còn hạn chế; nhận thức pháp luật, ý thức tuân thủ pháp luật chưa cao. Một số ĐTV, KSV nhận thức không đầy đủ về quyền con người, trách nhiệm, nghĩa vụ của CQTHTT, NTHTT đối với bảo vệ quyền con người trong khi tiến hành tố tụng. Nhận thức về tính chất và vai trò, tầm quan trọng của hoạt động bắt người, tạm giữ, tạm giam, các trình tự, thủ tục TTHS trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự còn nhiều hạn chế. Việc xác định căn cứ áp dụng, lựa chọn biện pháp ngăn chặn thiếu chính xác dễ dẫn đến những hoạt động, hành vi tố tụng tùy tiện, trái pháp luật, xâm hại đến quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Thực tế vẫn đang tồn tại tình trạng một bộ phận không nhỏ NTHTT, CQTHTT chưa đánh giá đầy đủ, tích cực về các yêu cầu đối với việc bảo vệ quyền con người, tác động của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, cưỡng chế hình sự đối với quyền con người; nguy cơ xâm hại quyền con người trong hoạt động TTHS nói chung, khởi tố, điều tra vụ án hình sự nói riêng. CQTHTT chưa chủ động xây dựng cơ chế, hệ thống tiêu chí về bảo vệ quyền con người, thực hiện các biện pháp, hoạt động thiết thực để bảo vệ quyền con người.
Bên cạnh hạn chế về năng lực, trình độ, ý thức chuyên môn của một bộ phận cán bộ làm công tác điều tra, kiểm sát điều tra, hầu hết các CQĐT, VKS đang trong tình trạng thiếu cán bộ. Số lượng ĐTV, KSV chưa đủ biên chế, biên chế chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn. TTHS là hình thức lao động đặc thù.
NTHTT phải chịu áp lực rất lớn về trách nhiệm, tâm lý, tình cảm, dư luận, xung đột quyền, lợi ích của các bên tham gia tố tụng. Thiếu biên chế dẫn đến tình trạng quá tải về khối lượng, thời lượng hoạt động TTHS. Các áp lực trên tác động tiêu cực lên hoạt động của NTHTT. Tình trạng NTHTT không đủ điều kiện khách quan, chủ quan để nghiên cứu, quán triệt, tuân thủ triệt để các quy định pháp luật TTHS, trong đó có quy định về bảo vệ quyền con người tương đối phổ biến. Quá trình khởi tố, điều tra vụ án hình sự, NTHTT dễ rơi vào xu hướng nhận định theo kinh nghiệm, án lệ, suy diễn chủ quan, không thu thập đầy đủ chứng cứ, đi sâu nghiên cứu, nhìn nhận, đánh giá đúng, đầy đủ bản chất sự việc, hành vi của bị can, đương sự, đi theo lối mòn nhận thức và quyết định, hành động theo phương châm lấy mục đích biện hộ cho hành vi, do đó khó tránh những sai sót, hạn chế trong quá trình tiến hành tố tụng nói chung, khởi tố, điều tra vụ án hình sự nói riêng.
Thứ ba, nguyên nhân từ cơ chế phối hợp thiếu đồng bộ giữa các CQTHTT
Bộ luật TTHS quy định CQĐT, VKS và trong một số trường hợp cụ thể, TA, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội biên phòng, lực lượng Cảnh sát biển, một số lực lượng trong CAND, QĐND được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự, tiến hành một số hoạt động điều tra. Tuy nhiên, chỉ CQĐT, VKS mới là CQTHTT trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự (Điều 33). Hoạt động của CQĐT, VKS cùng hướng tới mục tiêu chung là phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được mục tiêu chung đó, tất yếu phải thực hiện mối quan hệ phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau.
Có thể bạn quan tâm!
- Một Số Quy Định Của Bộ Luật Tths Về Áp Dụng Các Biện Pháp Khởi Tố, Điều Tra Có Liên Quan Đến Bảo Vệ Quyền Con Người
- Những Tồn Tại, Vướng Mắc Trong Hoạt Động Của Cqđt, Vks Liên Quan Vấn Đề Bảo Vệ Quyền Con Người Trong Giai Đoạn Khởi Tố, Điều Tra Vụ Án Hình Sự
- Số Lượng Bị Can Hàng Năm Từ Năm 2010 Đến 2014 Tại Cqđt Các Cấp
- Những Kiến Nghị, Đề Xuất Nâng Cao Hiệu Quả Bảo Vệ Quyền Con Người Trong Giai Đoạn Khởi Tố, Điều Tra
- Đề Xuất, Kiến Nghị Hoàn Thiện Các Quy Định Của Bộ Luật Tths Về Khởi Tố, Điều Tra Vụ Án Hình Sự
- Đề Xuất, Kiến Nghị Về Nâng Cao Trình Độ, Năng Lực Của Đtv, Ksv
Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.
Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, về cơ bản, hoạt động của CQĐT là hoạt động thu thập chứng cứ, các trình tự, thủ tục khác chứng minh tội phạm, người phạm tội, các tình tiết liên quan; hoạt động của VKS là kiểm tra, giám sát hoạt động của CQĐT, đảm bảo CQĐT thực hiện đúng, đủ các hoạt động, biện pháp, trình tự, thủ tục điều tra; đảm bảo các hoạt động khởi tố, điều tra của CQĐT được thực hiện đúng quy định pháp luật TTHS. Hoạt động khởi tố, điều tra và kiểm sát khởi tố, điều tra thống nhất biện chứng về mục tiêu, phương pháp và cách thức. Hoạt động khởi tố, điều tra là cơ sở pháp lý TTHS làm phát sinh hoạt động kiểm sát khởi tố, điều tra. Kết quả của hoạt động khởi tố, điều tra là căn cứ để VKS ra cáo trạng truy tố người thực hiện hành vi phạm tội. Một mặt, hoạt động kiểm sát khởi tố, điều tra chế ước hoạt động khởi tố, điều tra trong khuôn khổ pháp luật. Một mặt, hoạt động này hỗ trợ, tạo cơ sở, tiền đề pháp lý TTHS cho hoạt động khởi tố, điều tra. Quan hệ chế ước, hỗ trợ lẫn nhau giữa CQĐT và VKS thể hiện rất rõ trong việc VKS thực hiện trách nhiệm, thẩm quyền phê chuẩn các lệnh, quyết định của CQĐT. Bằng quyết định phê chuẩn của mình, VKS không chỉ xác nhận lệnh, quyết định được phê chuẩn của CQĐT có đủ căn cứ, cần thiết, có giá trị, hiệu lực pháp lý theo quy định của Bộ luật TTHS mà còn khẳng định CQĐT phải tiến hành hoạt động, biện pháp TTHS theo các lệnh, quyết định này. Việc thực hiện tốt mối quan hệ chế ước, hỗ trợ giữa CQĐT và VKS tạo điều kiện thuận lợi cho cả hai cơ quan hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Kết quả hoạt động điều tra tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho VKS thực hiện hiệu quả chức năng công tố của mình... Tất nhiên, mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS luôn được thực hiện trên cơ sở pháp lý và nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu chung của hoạt động TTHS. Như vậy, giữa CQĐT và VKS luôn tồn tại mối quan hệ chế ước lẫn nhau và phối hợp với nhau trên cơ
sở quy định của pháp luật về chức năng nhiệm vụ của mỗi cơ quan và vì mục tiêu tố tụng chung.
Quan hệ giữa CQĐT và VKS trong TTHS nói chung, trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự được quy định cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật như Luật tổ chức VKSND năm 1960, 1981 và 2002; Sắc luật số 02/SL-76 ngày 15/3/1976 của Hội đồng Chính phủ quy định về việc bắt, giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật. Đặc biệt, ngày 28/06/1976, Bộ Công an và VKSNDTC ban hành Thông tư số 427/TTLB quy định tạm thời một số nguyên tắc về quan hệ giữa Bộ Công an và VKSNDTC trong công tác điều tra các vụ án hình sự. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên trong lịch sử lập pháp ở nước ta quy định riêng về mối quan hệ giữa hai cơ quan tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự. Ngày 27/3/1980, VKSNDTC và Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 01/TTLB hướng dẫn phân loại và xử lý các vụ việc phạm pháp thường xảy ra ở cơ sở. Tiếp theo là Thông tư số 01/TTLB ngày 23/01/1984 của Bộ Nội vụ - VKSNDTC về quan hệ giữa hai ngành Công an - Kiểm sát trong công tác điều tra và kiểm sát điều tra. Theo các quy định tại Thông tư này thì ngay sau khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm hoặc có tội phạm xảy ra, CQĐT và VKS cần phối hợp trong các hoạt động điều tra và tiến hành kiểm tra, giám sát các hoạt động điều tra vụ án từ khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can; áp dụng, thay đổi các biện pháp ngăn chặn; thu giữ, bảo quản vật chứng; tiến hành các hoạt động điều tra cụ thể như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, trưng cầu giám định, hỏi cung… Ngoài ra, Thông tư số 01/TTLB còn quy định, đối với các vụ án phức tạp, án trọng điểm có thể tổ chức họp liên ngành CQĐT - VKS - TA để cùng nhau nghiên cứu, đánh giá chứng cứ của vụ án, đi đến thống nhất đường lối giải quyết vụ án ngay từ giai đoạn điều tra để tránh những sai sót, vi phạm có thể xảy ra. Mối quan hệ giữa CQĐT và VKS được quy định đầy đủ và hoàn thiện hơn khi VKSNDTC - Bộ
Công an - Bộ Quốc phòng ban hành Thông tư liên tịch số 05/TTLT ngày 07/9/2005 về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật TTHS năm 2003. Những hướng dẫn trong Thông tư giúp CQĐT và VKS thực hiện đúng đắn và thống nhất một số quy định của Bộ luật TTHS về việc thay đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của PTT CQĐT (Điểm d Khoản 1 Điều 34); về việc thay đổi ĐTV, TT, PTT CQĐT; KSV, VT, PVT VKS (Điều 44 và Điều 45); về căn cứ
bắt người trong trường hợp khẩn cấp, thủ tục phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp (Điều 81) và những việc phải làm ngay sau khi bắt khẩn cấp hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp truy nã (Điều 83); về thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam và cách ghi thời hạn trong lệnh tạm giam (Khoản 4 Điều 87); về việc khởi tố và kiểm sát khởi tố vụ án hình sự (các điều 104, 105 và
109) và việc thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự (Điều 106); về trách nhiệm của CQĐT trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của VKS (Điều 114); quan hệ phối hợp giữa hai cơ quan trong việc chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền (Điều 116), Thông tư 05 quy định, trong trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền điều tra của mình, CQĐT phải đề nghị VKS cùng cấp ra quyết định chuyển vụ án cho CQĐT có thẩm quyền để tiếp tục điều tra. Trường hợp thấy vụ án không thuộc thẩm quyền của CQĐT cấp mình thì VKS yêu cầu CQĐT tiến hành các thủ tục để VKS ra quyết định chuyển vụ án cho CQĐT có thẩm quyền. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của CQĐT, VKS cùng cấp phải ra quyết định chuyển vụ án cho CQĐT có thẩm quyền. Một số hướng dẫn trong Thông tư đã giúp các CQĐT, VKS áp dụng thống nhất quy định về quyết định thay đổi hoặc quyết định bổ sung quyết định khởi tố bị can (Điều 127); trong việc giao nhận và phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can (Khoản 4 và Khoản 6 Điều 126; Khoản 2 và
Khoản 3 Điều 127). Theo đó, trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, CQĐT phải gửi các quyết định này kèm theo các tài liệu có liên quan cho VKS cùng cấp để xem xét, phê chuẩn. Đồng thời, căn cứ quy định tại Khoản 6 Điều 126 và Khoản 3 Điều 127 của BLTTHS thì CQĐT phải giao ngay quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can cho bị can trước khi VKS phê chuẩn. Do đó, VKS có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với CQĐT để việc xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can được nhanh chóng, kịp thời phúc đáp yêu cầu điều tra. Trường hợp không thể giao ngay các quyết định này cho bị can như trường hợp bắt bị can tại ngoại để tạm giam hoặc phải khám xét chỗ ở, nơi làm việc của bị can; bị can trốn; bị can tại ngoại do không triệu tập hoặc gặp ngay được... thì sau khi có quyết định phê chuẩn của VKS cùng cấp, CQĐT phải giao ngay các quyết định đó (cả quyết định của CQĐT và quyết định phê chuẩn của VKS) cho người bị khởi tố. Ngoài ra, Thông tư còn một quy định rất mới về hồ sơ đề nghị VKS xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can; về việc thực hiện thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra của VKS khi cần thiết (Điều 112); về việc đề ra yêu cầu điều tra của KSV trong quá trình điều tra, KSV phải kịp thời trao đổi với ĐTV được phân công điều tra vụ án về những vấn đề cần điều tra ngay từ khi khởi tố vụ án, khám nghiệm hiện trường và trong quá trình điều tra, bảo đảm CQĐT nhanh chóng thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ của vụ án; về việc đóng dấu và đánh bút lục hồ sơ vụ án trong giai đoạn điều tra, truy tố.
Mối quan hệ giữa CQĐT và VKS rất đa dạng, phong phú, thể hiện ở tất cả các hành vi tố tụng của các chủ thể này trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, vừa phản ánh mục tiêu, yêu cầu chung của hoạt động tố tụng trong