đặc biệt quan trọng đối với hiệu quả xét xử. Quy định này tác động tiêu cực đến sự vô tư, khách quan của TA trong hoạt động xét xử cũng như trong toàn bộ quá trình tố tụng. Biểu hiện rõ nhất và thường thấy trong thực tiễn tố tụng là ngay tại tòa, HĐXX có thể hoàn toàn nghiêng về bên buộc tội.
Bộ luật TTHS quy định quyết định khởi tố bị can của CQĐT phải được VKS cùng cấp phê chuẩn. Trong thực tiễn tố tụng, do những bất cập trong trao đổi, tiếp nhận và xử lý thông tin, việc VKS thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát hoạt động khởi tố bị can của CQĐT thông qua thủ tục phê chuẩn khởi tố bị can chưa thực sự là một đảm bảo pháp lý có thể loại bỏ mọi nguy cơ xâm hại quyền con người trong hoạt động khởi tố bị can. Tại Điều 126 Bộ luật TTHS quy định, khi có đủ căn cứ xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì CQĐT ra quyết định khởi tố bị can. Bộ luật không có quy định ràng buộc việc khởi tố vụ án và khởi tố bị can. Trên thực tế, phần lớn thời điểm khởi tố bị can gắn liền, cùng thời điểm khởi tố vụ án hình sự. Đa số các biện pháp, hoạt động, trình tự, thủ tục điều tra để thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị can và các tình tiết liên quan lại được tiến hành sau khi đã có quyết định khởi tố bị can. Theo quy định của Bộ luật TTHS hiện nay, khi khởi tố bị can đối với một người, CQĐT mới chỉ có đủ căn cứ để xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội chứ chưa có đủ chứng cứ xác định người đó đã phạm tội. Việc chứng minh họ phạm tội hay không phạm tội là nhiệm vụ của quá trình điều tra sau khi đã khởi tố. Một người chỉ có thể bị coi là có tội khi có bản án của TA đã có hiệu lực pháp luật kết án họ về một tội phạm được quy định trong Bộ luật TTHS. Đủ căn cứ chứng minh một người thực hiện hành vi phạm tội không đồng nghĩa với đủ căn cứ chứng minh người đó phạm tội. Nghĩa là người bị khởi tố bị can có thể không phạm tội. Theo logic pháp lý, người không phạm tội có thể bị khởi tố bị can. Việc khởi tố bị can một người không phạm tội là hành vi pháp lý TTHS xâm hại
quyền con người. Việc giải quyết vấn đề quyền con người trong trường hợp họ đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng lại không phạm tội là một việc khó khăn, phức tạp, rất khó để đưa ra một giải pháp toàn diện song rõ ràng không thể bỏ qua. Thực tế pháp lý TTHS Việt Nam đã ghi nhận nhiều trường hợp CQTHTT sau khi đã khởi tố bị can một người, đã rất thiếu khách quan khi cố gắng chứng minh họ đã phạm tội.
Điều 126 Bộ luật TTHS về khởi tố bị can quy định: trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, CQĐT phải gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can đó cho VKS cùng cấp để xem xét, phê chuẩn việc khởi tố. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can, VKS phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can và gửi ngay cho CQĐT. Điều 164 Bộ luật TTHS quy định căn cứ (các trường hợp) đình chỉ điều tra bị can: Có một trong những căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 105 và Điều 107 của Bộ luật TTHS hoặc tại Điều 19, Điều 25 và Khoản 2 Điều 69 của Bộ luật hình sự. Theo đó, việc đình chỉ điều tra bị can chỉ được thực hiện khi người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu (đối với tội phạm khởi tố theo yêu cầu bị hại); không có sự việc phạm tội; hành vi không cấu thành tội phạm; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm đã được đại xá; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác; tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội; người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự; người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục; đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội
phạm. Như vậy Bộ luật TTHS không có quy định về việc huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can, đình chỉ điều tra bị can trong trường hợp việc khởi tố bị can không có hoặc không đủ căn cứ. Quy định của Bộ luật TTHS hiện nay dẫn đến tình trạng mặc dù quyết định khởi tố bị can không có căn cứ, việc điều tra theo thủ tục TTHS đối với một người với tư cách bị can sẽ không bị huỷ bỏ, đình chỉ sau khi VKS đã phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và trước khi hết thời hạn điều tra. Một người không thể bị khởi tố nếu họ không thực hiện hành vi phạm tội. Quyền con người của người của người bị khởi tố bị can đã bị xâm hại khi người đó bị khởi tố sẽ bị xâm hại nghiêm trọng hơn khi quyết định khởi tố bị can đối với họ không bị huỷ bỏ ngay khi xác định được quyết định đó không có căn cứ. Theo chúng tôi, nên có quy định về việc huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can, đình chỉ điều tra bị can ngay khi xác định được không có hoặc không đủ căn cứ chứng minh người đã bị khởi tố bị can thực hiện hành vi phạm tội mà họ đã bị khởi tố chứ không chờ đến khi “… hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm”.
Tại Điều 127 Bộ luật TTHS quy định: khi tiến hành điều tra, nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc còn hành vi phạm tội khác thì CQĐT, VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can. Việc ban hành một quy định có nội dung như trên, theo chúng tôi là một sai sót pháp lý nghiêm trọng, là tiền đề dẫn đến vi phạm quyền con người trong hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự. CQĐT, VKS chỉ được ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can khi hành vi phạm tội của người đã bị khởi tố bị can không phải là hành vi phạm tội đã bị khởi tố mà là hành vi phạm một tội khác được quy định trong Bộ luật HS; chỉ được ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố bị can khi ngoài hành vi phạm tội đã bị khởi tố, bị can còn thực hiện hành vi phạm tội khác. Quy định này dẫn đến sự tùy tiện của CQĐT, VKS trong việc chứng minh đến
cùng người có quyết định khởi tố bị can là người đã thực hiện tội phạm. Một người đã bị khởi tố bị can sẽ “phải” phạm vào một tội nào đó (bằng việc chuyển hết tội danh này sang tội danh khác). Do đó, quy định này nên được xem xét, sửa đổi thành: “Khi tiến hành điều tra, nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố mà phạm tội khác, chưa bị khởi tố hoặc còn hành vi phạm tội khác thì CQĐT, VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can”. Hoặc, theo chúng tôi sẽ là tích cực hơn nếu quy định: “Khi tiến hành điều tra, nếu có căn cứ xác định bị can không thực hiện hành vi phạm tội thì CQĐT, VKS ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can, VKS huỷ bỏ quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố mà phạm tội khác, chưa bị khởi tố hoặc còn thực hiện hành vi phạm tội khác thì CQĐT, VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can”.
Bộ luật TTHS cần quy định đổi mới thủ tục khởi tố theo một trong hai hướng sau: việc khởi tố vụ án vẫn được giao cho CQĐT như hiện nay, nhưng VKS phải phê chuẩn quyết định khởi tố vụ án và quyết định khởi tố bị can của CQĐT để tránh việc lạm dụng khởi tố vụ án, khởi tố bị can không có, không đủ căn cứ của CQĐT. Hướng thứ hai là VKS phải tự mình ra quyết định khởi tố bị can chứ không để CQĐT ra quyết định khởi tố bị can và VKS phê chuẩn quyết định này như hiện nay. Có thể nói nếu làm được điều này sẽ gắn kiểm sát với điều tra một cách chặt chẽ hơn, thực hiện được yêu cầu cải cách tư pháp, hướng tới bảo vệ tốt hơn quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
2.2.3. Đề xuất, kiến nghị về nâng cao trình độ, năng lực của ĐTV, KSV
Có thể khẳng định rằng trong giai đoạn khởi tố, điều tra, ĐTV và KSV có vị trí quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người cho người bị bắt, tạm giữ, bị can, người bị tạm giam và những người tham gia TTHS khác. Do vậy,
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự - 11
- Những Kiến Nghị, Đề Xuất Nâng Cao Hiệu Quả Bảo Vệ Quyền Con Người Trong Giai Đoạn Khởi Tố, Điều Tra
- Đề Xuất, Kiến Nghị Hoàn Thiện Các Quy Định Của Bộ Luật Tths Về Khởi Tố, Điều Tra Vụ Án Hình Sự
- Bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự - 15
- Bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự - 16
- Bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự - 17
Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.
nâng cao năng lực tố tụng của ĐTV và KSV là vấn đề đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định hiệu quả bảo vệ quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. ĐTV, KSV phải có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vai trò, vị trí của mình trong hệ thống TTHS, hoạt động TTHS nói chung, khởi tố, điều tra vụ án hình sự nói riêng. Tư tưởng chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, kiến thức ngoại ngữ, tin học, hiểu biết, kỹ năng hoạt động xã hội là những yếu tố quyết định xu hướng, thước đo năng lực bảo vệ quyền con người của ĐTV, KSV trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
Để nâng cao chất lượng , năng lực chuyên môn, hiệu quả bảo vệ quyền con người, trước hết KSV , ĐTV phải tự rèn luyện ý thức chính tri ̣ . Việc rèn
luyện ý thức chính tri ̣luôn phải đi đôi với vicệ rèn luyện phẩm chất đao đức của
người cán bộ theo lời day
của Chủ tic̣ h Hồ Chí Minh: "Công minh, chính trực,
khách quan, thận trọng, khiêm tốn". Phải kiên quyết hơn nữa trong việc nâng cao ý thức trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của ĐTV, KSV; đẩy mạnh công tác kiểm tra, hướng dẫn, chấm dứt hiện tượng chủ quan, nóng vội trong việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Trong hoạt động điều tra, cần chú ý không chỉ thu thập tài liệu chứng cứ buộc tội, tình tiết tăng nặng mà còn phải thu thập các chứng cứ, tài liệu chứng minh đương sự, bị can vô tội, làm rõ các tình tiết giảm nhẹ. Coi trọng việc nâng cao toàn diện trình độ chính trị, pháp luật, nghiệp vụ điều tra, kiểm sát, kỹ năng hành nghề và kiến thức xã hội…
Tổ chức tốt việc đào tạo trình độ đại học, trên đại học, bồi dưỡng chứng chỉ nghiệp vụ điều tra, kiểm sát cho đội ngũ ĐTV, KSV. Vấn đề chuẩn hóa đội ngũ ĐTV, KSV theo quy định của pháp luật nhất là việc đào tạo lại đối với số ĐTV, KSV chưa có trình độ đại học chuyên ngành điều tra tội phạm, kiểm sát theo quy định cũng cần được khẩn trương tiến hành để đảm bảo số lượng cán bộ đạt tiêu chuẩn, đáp ứng yêu cầu công tác khởi tố, điều tra tội phạm trong tình hình mới, không để xảy ra tình trạng vi phạm pháp luật
TTHS, khởi tố, điều tra không đúng người, đúng tội, oan sai do năng lực, trình độ ĐTV, KSV hạn chế, thiếu khách quan, công tâm, vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong khi thi hành công vụ.
Định kỳ hàng năm tổ chức cuộc thi, kiểm tra chất lượng ĐTV, KSV nhằm đánh giá một cách khách quan, toàn diện thực trạng đội ngũ ĐTV và KSV của các đơn vị, địa phương. Có biện pháp cụ thể, hiệu quả khắc phục yếu kèm, thiếu sót về tư tưởng chính trị, đạo đức nghề nghiệp cũng như năng lực, kỹ năng hành nghề, nhận thức về vấn đề bảo vệ quyền con người của ĐTV, KSV. Từng bước nâng cao hiệu quả điều tra và hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ không đúng quy định của pháp luật, đồng thời làm cơ sở để xem xét, phân loại thi đua đánh giá ĐTV, KSV đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, VKSNDTC, Bộ Tư pháp cần chú trọng chỉ đạo các đơn vị, địa phương, các cấp CQĐT, VKS phối hợp chặt chẽ với các học viện, trường, trung tâm, cơ sở nghiên cứu, đào tạo trọng điểm về luật, điều tra tội phạm, kiểm sát điều tra như các trường đại học luật, khoa Luật các trường đại học Học viện Cảnh sát nhân dân, Học viện An ninh nhân dân, Trường Đại học Kiểm sát, Học viện Tư pháp… chú trọng xây dựng các tình huống nghiệp vụ về khởi tố, điều tra và kiểm sát khởi tố, điều tra như: tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố; khám nghiệm hiện trường, hoạt động điều tra ban đầu; công tác khám xét, hỏi cung, lấy lời khai, trưng cầu giám định; phát hiện thu thập, củng cố, đánh giá chứng cứ… và kiểm sát các hoạt động nói trên.
Nhà nước cần chú trọng đầu tư cơ sở vật chất và trang bị phương tiện làm việc cho đội ngũ ĐTV, KSV. Nhìn chung, trong điều kiện hiện nay, cơ sở vật chất và chế độ hỗ trợ công tác cho ĐTV, KSV còn hạn chế, nhất là phòng làm việc, bàn ghế phục vụ cho hỏi cung, lấy lời khai, phương tiện, kinh phí tiến hành các hoạt động điều tra, kinh phí đảm bảo điều kiện tạm giữ, tạm giam…
Ngành Công an, Kiểm sát cần nghiên cứu phát triển , nâng cao năng lực ứng dụng thành tựu công nghệ thông tin trong công tác lưu trữ thông tin tội phạm, thống kê nghiệp vu ̣, hệ thống hóa các quy điṇ h của pháp luật , văn bản
hướng dẫn nghiệp vu,
chuyên đề nghiệp vu ,
đảm bảo hiệu quả kiểm tra, giám
sát việc chấp hành pháp luật nói chung, pháp luật về bảo vệ quyền con người nói riêng, không để xảy ra tình trạng tạm giữ, tạm giam người khi chưa có căn cứ vững chắc, khi không cần thiết; kịp thời phát hiện, ngăn chặn việc khởi tố, điều tra, tạm giữ, tạm giam, đề nghị truy tố người không có tội, không đúng tội danh, tính chất, mức độ phạm tội...
2.2.4. Đề xuất, kiến nghị về công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của CQĐT, VKS, ĐTV, KSV trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động, hành vi tố tụng của CQĐT, VKS, ĐTV, KSV cần được thực hiện nghiêm chỉnh, thường xuyên, liên tục, không để xảy ra oan sai, oan sai chậm được phát hiện, kéo dài. Kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm khắc hoạt động, hành vi tố tụng xâm phạm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Việc xử lý hành vi xâm hại quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự không được nể nang người có chức vụ, không lấy mục đích bảo vệ pháp luật biện minh cho hành vi xâm hại quyền con người, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật, răn đe, làm gương cho những người đang hoặc có ý định vi phạm.
Song song với hoạt động kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm các vi phạm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, Nhà nước cần xây dựng, áp dụng, duy trì cơ chế quản lý đặc thù đối với hoạt động TTHS của CQĐT, VKS, ĐTV, KSV. Đảm bảo các điều kiện làm việc, an toàn tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của ĐTV, KSV và thân nhân của họ,
đảm bảo tính độc lập, tự chủ của các chủ thể này trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, tích cực, chủ động trong việc bảo vệ quyền con người.
2.2.5. Những đề xuất, kiến nghị khác
Thứ nhất, thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng xâm phạm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự là do trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật của một bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân còn hết sức hạn chế. Khái niệm về quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân, việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân nói chung, trong lĩnh vực TTHS cũng như việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ đó, đối với nhiều người còn rất chung chung, mơ hồ. Trong thời gian qua, việc tuyên truyền pháp luật về quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, những kết quả đó chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, yêu cầu cải cách tư pháp, những nội dung và hình thức mới về bảo vệ quyền con người hiện nay.
Quyền con người của mỗi người dân, của mỗi bị can, đương sự trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án chỉ có thể được bảo vệ tốt khi chính họ - các chủ thể tối cao của các quyền này – có nhận thức, hiểu biết sâu sắc về các quyền này cũng như các cách thức, phương pháp để thực hiện các quyền của mình. Khi tham gia tố tụng, bị can, đương sự cũng đồng thời phải biết rõ các biểu hiện, tình trạng thực tế (quyền con người của mình đang) bị xâm hại, tính chất, mức độ xâm hại…; những chế định, điều, khoản pháp luật, nhất là pháp luật TTHS quy định về quyền con người và bảo vệ quyền con người; những cơ quan, cá nhân, tổ chức có trách nhiệm, thẩm quyền, có năng lực ngăn chặn, chống lại hành vi, hoạt động TTHS của CQTHTT, NTHTT đang xâm hại quyền con người, các hình thức, nội dung, yêu cầu của việc bảo vệ, phục hồi quyền con người… Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật phải hướng đến (và đạt được) mục tiêu mỗi người dân, bị can, đương sự có năng lực cao nhất