b) Vấn đề số bữa ăn và chất lượng ăn bổ sung:
Chất lượng chế độ ăn bổ sung liên quan đến số bữa ăn và dạng thức ăn được sử dụng. Các dạng thức ăn phổ biến ở nông thôn hiện nay là bột gạo, cháo, cơm nhai.
+ Về số lượng bữa ăn, chế độ chăm sóc ưu tiên không được chú trọng dẫn đến số bữa ăn không đảm bảo và không đúng bữa đang còn tồn tại phổ biến. Hiện nay ở nông thôn, hệ thống nhà trẻ không còn nên việc chăm sóc trẻ được ủy thác cho người già hoặc trẻ vị thành niên. Những người này hầu như hoàn toàn không có kiến thức dinh dưỡng. Chính vì với chế độ chăm sóc như vậy nên dạng thức ăn được sử dụng cũng rất tùy tiện. Có một bộ phận lớn (45%) trẻ dưới 8 tháng tuổi được cho ăn bằng cháo nấu một lần ăn cả ngày. Đây là dạng thức ăn rất nghèo năng lượng nhưng lại rất phổ biến ở nông thôn [34]. Nghiên cứu tại tỉnh Bắc Giang của Viện Dinh dưỡng cho thấy chỉ có 52% trẻ được ăn bột gạo, còn lại là ăn cháo hoặc cơm nhai [39].
+ Về chất lượng bữa ăn, tập quán nuôi dạy trẻ tùy tiện vẫn còn tồn tại khá phổ biến ở nhiều vùng miền và có ảnh hưởng quan trọng đến tỷ lệ suy dinh dưỡng chung trong cộng đồng. Ngày nay, trình độ dân trí đã thay đổi đáng kể so với những thập niên trước, nhiều tập quán xấu đã được loại trừ nhưng vấn đề cân đối bữa ăn cũng đang là tồn tại khá phổ biến.
+ Tần suất sử dụng thức ăn giầu năng lượng và giữ vai trò sinh học quan trọng không cao; Số liệu giám sát tại tỉnh Bắc Giang của Viện Dinh dưỡng cho thấy có 28,6% không sử dụng protein động vật; 24,2% không sử dụng dầu mỡ; 22,5% không sử dụng rau xanh [24], [37].
+ Tập quán ăn kiêng, nguyên nhân đầu tiên là các bà mẹ không dám cho trẻ nhỏ ăn thêm dầu mỡ, rau xanh vẫn còn tồn tại. Bên cạnh đó, bà mẹ không có thời gian để chế biến cẩn thận từng bữa ăn cho trẻ. Nguyên
nhân thứ ba là do nghèo đói, không có tiền để mua thực phẩm thường
xuyên cho trẻ.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực trạng thiếu dinh dưỡng, một số yếu tố liên quan và đề xuất giải pháp can thiệp ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Việt Yên - Bắc Giang, 2006-2008 - 1
- Thực trạng thiếu dinh dưỡng, một số yếu tố liên quan và đề xuất giải pháp can thiệp ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Việt Yên - Bắc Giang, 2006-2008 - 2
- Các Số Đo Nhân Trắc Trong Đánh Giá Tình Trạng Dinh Dưỡng
- Các Bước Tiến Hành Xây Dựng Chương Trình Can Thiệp Dinh Dưỡng
- Nội Dung Nghiên Cứu Xác Định Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Chậm Tăng Trưởng Trong Nghiên Cứu.
Xem toàn bộ 142 trang tài liệu này.
1.4.5. Trình độ văn hóa thấp và thiếu kiến thức dinh dưỡng gây ảnh hưởng
quan trọng đến chất lượng nuôi trẻ
Nhiều tập quán ăn uống không có lợi như ăn kiêng (kiêng dầu mỡ, cá, rau xanh…) còn duy trì; không biết tận dụng nguồn thức ăn giầu dinh dưỡng sẵn có như đậu, vừng, lạc…bán trứng gà, hoa quả để mua thực phẩm chế biến sẵn; không cho ăn đủ bữa, không thực hành bữa ăn cân đối…
1.4.6. Thiếu vitamin và khoáng chất
Bên cạnh suy dinh dưỡng do thiếu Protein và năng lượng, khoa học ngày nay đã thừa nhận kết quả tăng trưởng nghèo nàn ở trẻ em còn có thể do mất cân đối các yếu tố vi lượng (như sắt, kẽm, iod- Mendoza, 1996 [82]), vitamin (như thiếu vitamin A) hoặc một số axit béo thiết yếu và một số loại khoáng chất khác (UNICEF, 1998), [12], [78], [73], [62].
Vi chất dinh dưỡng cần thiết cho mọi lứa tuổi, song nó ảnh hưởng rõ rệt trên những cơ thể đang phát triển nhanh như phụ nữ mang thai, trẻ sơ sinh và trẻ còn bú. Hầu hết các vitamin (nhóm B, vitamin A, vitamin C...) được hấp thu chủ yếu qua thức ăn. Chỉ có vitamin D được tổng hợp ở da dưới ánh nắng mặt trời trực tiếp.
Từ nhiều năm trước đây, người ta đã nhận thấy vai trò của các vi chất dinh dưỡng và càng ngày người ta lại càng tập trung nghiên cứu về mối liên quan giữa thiếu vi chất dinh dưỡng đối với tình trạng suy dinh dưỡng. Do đó, nhiều nghiên cứu tập trung vào việc xác định xem thiếu vi chất dinh dưỡng loại nào cản trở quá trình phát triển và quan trọng hơn là cần xác định suy dinh dưỡng xảy ra do thiếu một hay thiếu nhiều vi chất dinh dưỡng xảy ra đồng thời.
Theo Engle, mô hình nguyên nhân SDD của Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) đã được phổ biến khá rộng rãi hoặc mô hình gần đây về Chăm sóc Ban đầu - Care Initiative đều tập trung vào vai trò chăm sóc dinh dưỡng sức khoẻ bà mẹ trẻ em. Trong các mô hình trên người ta không rút ra được các yếu tố nguyên nhân của tình trạng suy dinh dưỡng [63], [64].
1.4.7. Vai trò của bệnh tật
Bệnh tật được coi là một trong hai nguyên nhân trực tiếp gây suy dinh dưỡng ở trẻ em. Năm 1995, ở các nước đang phát triển có 55% trẻ em tử vong do các bệnh nhiễm trùng có liên quan đến suy dinh dưỡng, dẫn đầu là bệnh nhiểm khuẩn hô hấp cấp tính - ARI (19%), tiêu chảy (19%), sởi (7%) (C.Murray,1996) [83], [55] (UNICEF, 1995).
1.4.8. Dịch vụ y tế, nước sạch và vệ sinh môi trường liên quan đến bệnh tật.
Một yếu tố quan trọng của nền y tế tốt là dịch vụ y tế phải đa dạng và chất lượng tốt. Các điểm cung cấp dịch vụ phải gần với khu dân cư. Theo đánh giá của UNDP, có tới 30-50% dân cư ở 35 quốc gia nghèo nhất không được cung cấp dịch vụ y tế. Nước sạch và vệ sinh môi trường là những yếu tố liên quan đến các bệnh truyền nhiễm (UNDP, 1997 [100]). Năm 2000, chỉ có khoảng 3,2 tỷ người được cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường. Ở nông thôn, chỉ có khoảng 18% dân cư được cung cấp nước sạch [101].
Từ năm 1990, Chiến lược dinh dưỡng của UNICEF đã phát triển quan niệm về cấu trúc của nguyên nhân gây rối loạn dinh dưỡng theo những nguyên lý trên. Sự phân tích đó đã được ứng dụng ở mức độ quốc gia, vùng và phân vùng để trợ giúp cho các kế hoạch hành động cải thiện dinh dưỡng đạt hiệu quả. Nó phục vụ cho việc lượng giá và phân tích những nguyên nhân của vấn đề dinh dưỡng và hỗ trợ lựa chọn những vấn đề thích đáng nhất các hoạt động phòng, chống suy dinh dưỡng.
Tình trạng dinh dưỡng trẻ em
An ninh LTTP hộ gia đình
Khẩu phần
của trẻ em
Tình trạng sức
khỏe của trẻ em
Nguyên nhân trực tiếp
Nguồn lực cho an ninh lương thực thực phẩm
- Sản xuất lương thực, thực phẩm
- Thu nhập
- Quà
Chăm sóc bà mẹ và trẻ em
Nguồn lực cho chăm sóc
N
Môi trường G
sức khỏe U
&vàdịch Y
vụ y tế Ê
N
Nguồn lực cho N
sức khỏe H
- Kiểm soát nguồn lực và tự quyết của người chăm sóc trẻ
- Tình trạng sức khỏe thể chất và tinh thần của người chăm sóc trẻ
- Kiến thức và niềm tin
của người chăm sóc
- Cung cấp nước
sạch
- Vệ sinh đầy đủ
- Có chăm sóc y
tế
- An toàn môi
trường
Â
N
T I Ề M
T À N
Đ Ó I N G H È O G
Cấu trúc chính trị-xã hội và kinh tế
Môi trường văn hoá - xã hội
Các nguồn tiềm năng:
môi trường, công nghệ, con người
Nguyên nhân
cơ bản
Nguồn: IFPRI: Overcoming Child Malnutrition in Developing Countries:
Past achievements and future choices; 2/2000, trang 5
Mô hHình 1.23. Mô hình nguyên nhân SDD của UNICEF
Đối với nước ta, mức giảm SDD không đồng đều giữa các vùng. Các vùng tập trung dân cư đông hiện nay tỷ lệ SDD còn cao: Đồng bằng sông Hồng 14,6%; Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung 19,8%; Đồng bằng sông Cửu long 16,8% (Nguồn: Viện Dinh dưỡng - Tình hình dinh dưỡng Việt Nam năm 2009-2010, tháng 4/2011). Cơ sở hạ tầng đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu quả các hoạt động chăm sóc trẻ em và bà mẹ không đồng đều và khó có thể có những tiến bộ nhanh trong một thời gian ngắn. Bên cạnh đó, những thách thức không nhỏ về tăng trưởng kinh tế trong 5 năm tới đã và đang đặt ra đồng thời khả năng có thể có những diễn biến bất lợi về thời tiết, thiên tai.
Tóm lại: Nghèo đói chính là nguyên nhân cơ bản của suy dinh dưỡng và mối quan hệ giữa nghèo đói và suy dinh dưỡng giống như một vòng tròn luẩn quẩn. Tình trạng dinh dưỡng vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của các cơ hội tìm kiếm thu nhập. Bên cạnh nghèo đói, các yếu tố khác cũng quan trọng. Những yếu tố này bao gồm chế độ ăn không cân đối, khẩu phần ăn thiếu về số lượng và mất cân đối về chất lượng, thực hành chế biến thực phẩm kém, mất an toàn thực phẩm và dinh dưỡng, không có hoặc thiếu khả năng tiếp cận nước sạch, điều kiện vệ sinh kém và dịch vụ chăm sóc sức khoẻ không đầy đủ. Suy dinh dưỡng trẻ em còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố quan trọng khác, đặc biệt là những yếu tố liên quan đến việc sử dụng nguồn lực trong hộ gia đình như thời gian và kiến thức của người chịu trách nhiệm chính trong việc chăm sóc trẻ - thường là người mẹ.
1.4.9. Tình trạng nhiễm giun và tình trạng dinh dưỡng
Nhiễm ký sinh trùng đường ruột như giun đũa, giun tóc, giun móc là một vấn đề sức khỏe cộng đồng ở các nước đang phát triển do điều kiện vệ sinh môi trường không đảm bảo. Nhiễm giun là nguyên nhân làm cho trẻ chán ăn, giảm hấp thu các chất dinh dưỡng, thiếu máu, và gây ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Nhiễm ký sinh trùng đường ruột với cường độ cao
và trong một thời gian dài có thể gây suy dinh dưỡng như thấp còi và nhẹ cân, và ở những trường hợp nặng có thể gây tử vong (Stoltzfus, và CS, 1997; Hadidjaja, và CS, 1998; World Bank, 2003).
Theo một số nhà nghiên cứu cho rằng trẻ em bị nhiễm giun là một trong các nguyên nhân gây suy dinh dưỡng trẻ em, phòng chống nhiễm giun tốt sẽ góp phần phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ trong nhà trường cũng như tại cộng đồng ngày một tốt hơn làm giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng đến năm 2020 còn dưới 12,5%, trong nhà trường giảm 2 đến 3% so với đầu năm.
a. Tình hình nhiễm giun trên thế giới:
Hiện nay bệnh giun vẫn còn phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước ở các vùng nhiệt đới như Châu Phi, Châu Á và một số nước Châu Âu. Ở Việt Nam, bệnh giun lưu hành khá cao.
Trên thế giới có khoảng 1,4 tỷ người đang bị nhiễm giun, trong đó trẻ em dưới 5 tuổi là 69,5%, các nước phát triển tỷ lệ nhiễm giun ở trẻ em dưới 5 tuổi là 10%, các nước đang phát triển có nơi lên đến 90%. Ở Châu Phi trẻ em bị nhiễm giun 93,7%, Trung Quốc có số người bị nhiễm giun là 358 triệu trẻ em dưới 5 tuổi chiếm tỷ lệ 37,8%, Ấn Độ với số người bị nhiễm giun là gần 319 triệu, trẻ em dưới 5 tuổi là 42,1% (theo Thống kê của Tổ chức Y tế thế giới, 1995).
Nhiễm giun đường ruột rất phổ biến ở trẻ em tại các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước trong vùng nhiệt đới do khí hậu nóng ẩm, tập quán ăn uống, vệ sinh thân thể, vệ sinh môi trường kém.
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới, điều kiện khí hậu, tập quán sinh hoạt cũng như vệ sinh môi trường rất thuận lợi cho sự phát triển và lây nhiễm giun. Người dân chưa có thói quen rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh chiếm tỉ lệ trên 82%, người dân còn dùng phân tươi để bón rau nên tỉ lệ nhiễm giun ở trẻ em rất cao khoảng 80% (đặc biệt trẻ em vùng nông thôn). Tỉ lệ
nhiễm giun ở trẻ em khác nhau tuỳ từng vùng, từng khu vực, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế của xã hội. Ở các nước phát triển, tỉ lệ nhiễm giun ở trẻ em dưới 5 tuổi là 10%, trong khi đó ở các nước đang phát triển thì tỷ lệ này có nơi lên đến trên 90% .
b. Tình hình nhiễm giun ở Việt Nam
Theo số liệu của Bệnh viện Nhi Trung ương, trẻ em dưới 2 tuổi bị nhiễm giun rất thấp 17,6%, trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tỉ lệ nhiễm giun đũa là 84,5%, giun kim 52,3%, giun móc 9,2%. Trong thực tế trẻ em tuổi mầm non bị nhiễm giun sẽ biếng ăn, mất ngủ, thiếu máu, suy dinh dưỡng. Các nhà nghiên cứu đã cho thấy các biến chứng của bệnh giun như sau: viêm hoại tử ruột non, tiêu đàm máu, tiêu chảy cấp và mạn, xuất huyết tiêu hoá, giun chui ống mật, nhiễm trùng đường tiểu…làm ảnh hưởng đến tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em, sức khoẻ và sự phát triển về thể lực và phát triển trí tuệ của trẻ.
Theo số liệu điều tra gần đây của Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng Trung ương, bệnh giun truyền qua đất ở nước ta vẫn còn khá phổ biến. Tỷ lệ nhiễm giun đũa là 33,9 triệu người (chiếm khoảng 44,4%); giun tóc là 17,6 triệu người (chiếm khoảng 23,1%) và 21,8 triệu người nhiễm giun móc (28,6%).
Tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất phân bố rộng rãi trên cả nước, với các tỷ lệ nhiễm khác nhau. Ở miền Bắc, nhiễm giun đũa từ 50-95%, giun tóc là 28-89%, giun móc từ 3-67%; Ở miền Trung tỷ lệ nhiễm giun đũa, giun tóc, giun móc tương ứng là 12,5-70,5%, 12,7-47% và 36,7-69%; nhưng ở miền Nam tỷ lệ nhiễm giun đũa, giun tóc, giun móc tương ứng là 10-60%, 0,5-1,7% và 47-68%.
Bên cạnh đó, tỷ lệ nhiễm giun ở học sinh tiểu học đã giảm nhưng tỷ lệ
tái nhiễm tương đối cao. Chẳng hạn, tại tỉnh Thừa Thiên Huế, tỷ lệ nhiễm
giun trước khi can thiệp là 70%, sau can thiệp 2 tuần là hơn 24% và sau 6
tháng thì đã gần như trở lại với tỷ lệ ban đầu.
Tỷ lệ nhiễm giun tại các tỉnh như Yên Bái, Sơn La, Thanh Hóa…đều ở mức trên 50%. Tại Hà Nội, tỷ lệ này cũng lên đến gần 20%.
c. Mối liên quan giữa nhiễm giun và tình trạng thiếu máu
Trẻ em dưới 60 tháng tuổi bị thiếu máu có nhiều nguyên nhân, trong đó nhiễm giun đường ruột là một nguyên nhân cần được quan tâm. Nhiễm giun gây nên chán ăn, hấp thu kém, tiêu hóa kém, viêm mạn tính ống tiêu hóa, cạnh tranh sử dụng và làm tăng mất các chất dinh dưỡng: protein, lipid, vitamin A... Lâu dài, giun làm thiếu máu. Thiếu máu nặng sẽ ảnh hưởng đến quá trình phát triển cả về thể chất và sự phát triển tinh thần của trẻ [24], [37].
Với phụ nữ trưởng thành và phụ nữ ở độ tuổi sinh sản, nhiễm giun ảnh hưởng tới thời kỳ mang thai, gây thiếu máu ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con cái họ, có thể gây đẻ non, trẻ thiếu cân, tử vong mẹ và tử vong sơ sinh. Trẻ bị nhiễm giun sẽ bị rối loạn tiêu hóa, cản trở quá trình hấp thu chất dinh dưỡng. Lâu ngày có thể khiến trẻ bị thiếu máu, sức đề kháng kém, dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn.
Thiếu máu là một trong những vấn đề mang ý nghĩa sức khỏe cộng đồng phổ biến nhất ở các nước đang phát triển. Các đối tượng có nguy cơ bị thiếu máu cao nhất là trẻ em và phụ nữ có thai. Thiếu máu gây ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ, sự tăng trưởng, nó làm giảm khả năng họat động thể lực và tăng nguy cơ mắc bệnh (Nestel và Davidsson, 2002). Thiếu máu có thể do nguyên nhân như: thiếu dinh dưỡng, mắc các bệnh nhiễm trùng và do mất máu. Thiếu sắt là nguyên nhân chính của gần 50% các trường hợp thiếu máu (Staubli, và CS, 2001). Thiếu một số các vi chất dinh dưỡng khác như vitamin A, một số vitamin nhóm B (B6, B12, riboflavin, và acid folic) cũng có thể gây thiếu máu (Allen, 2002). Nguy cơ thiếu máu cũng tăng ở những đối tượng