Những Quy Tắc Về Bảo Vệ Các Khu Vực, Địa Điểm Y Tế Và An Toàn [45, Tr.315]:

chuyển y tế tức là bảo vệ nhân viên y tế, bảo vệ những người bị thương, bị ốm, và những đối tượng khác đang được vận chuyển, bảo vệ tài sản, đồ cứu trợ, dụng cụ, thiết bị y tế đang chuyên chở. Vì thế, việc bảo vệ này có ý nghĩa sống còn đến quyền lợi của những đối tượng được bảo vệ theo Công ước Geneva.

2.3.1.4. Những quy tắc về bảo vệ các khu vực, địa điểm y tế và an toàn [45, tr.315]:

Những quy tắc này được hình thành do sự thỏa thuận của các bên trong thời bình hoặc sau khi chiến sự nổ ra. Các bên xung đột cùng với sự giúp đỡ của các nước bảo hộ và Ủy ban Chữ thập đỏ sẽ thỏa thuận những khu vực nào là khu vực, địa điểm y tế an toàn và về nguyên tắc các bên trong cuộc xung đột phải có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ những địa điểm này, không bao giờ tấn công và các địa điểm đó trừ trường hợp vi phạm. Những quy tắc này có ý nghĩa thực sự rất quan trọng trong việc bảo vệ địa điểm y tế, các trang thiết bị y tế để phục vụ cho những người bị thương, bị ốm, bị đắm tàu, bảo vệ các nhân viên y tế, bảo vệ những người bị thương, bị ốm, bị đắm tàu đang được chăm sóc. Để bảo vệ khu vực này, cả hai công ước (I) và (IV) đều kèm theo phụ lục về Dự án hiệp định về các khu vực, địa điểm y tế và an toàn đã chi tiết hóa vấn đề này như về thiết kế (phải nằm xa mục tiêu chiến tranh, phải phân biệt rõ bằng dấu hiệu…) và về quản lý (tiến hành mọi biện pháp ngăn chặn để ngăn cấm những người không có quyền được đến hoặc trú ngụ trong các khu vực đó, không sử dụng đường giao thông và phương tiện vận tải của khu vực đó để di chuyển nhân viên, không được bố trí lực lượng quân sự để bảo vệ khu vực đó để tránh sự nhầm lẫn), về giám sát (các bên phải thông báo danh sách cho nhau các khu vực y tế và an toàn để các bên nắm được).

2.3.1.5. Bảo vệ quyền lợi của các đối tượng thông qua biểu tượng và dấu hiệu phân biệt [45, tr.318]

Biểu tượng phận biệt mà các bên có thể lựa chọn một trong ba loại:

Chữ thập đỏ trên nền trắng, trăng lưỡi liềm đỏ trên nền trắng hoặc sư tử và mặt trời đỏ trên nền trắng. Đối với các nhân viên y tế bao gồm cả quân y và dân y, đều phải mang trên tay trái một băng tay chịu ẩm ướt, trên đó có biểu tượng phân biệt do nhà đương cục quân sự cấp và đóng dấu và một thẻ căn cước có biểu tượng phân biệt. Đối với các đơn vị y tế thì lá cờ phân biệt được treo cùng với quốc kỳ của bên mà các cơ sở đó thuộc quyền, trong trường hợp là đơn vị y tế của nước trung lập thì phải treo quốc kỳ của bên tham chiến mà họ giúp đỡ với lá cờ phân biệt. Đối với phương tiện vận chuyển y tế, tàu thuyền phải đảm bảo tất cả bề mặt là màu trắng, ở hai bên sườn tàu và trên các mặt phẳng ngang in một hoặc nhiều chữ thập đỏ sẫm, càng to càng tốt và lá cờ treo biểu tượng phân biệt treo cùng với lá cờ quốc kỳ của nước mình; đối với tàu trung lập. Đối với phương tiện vận chuyển y tế, ngoài biểu tượng truyền thống còn có thể sử dụng một số biểu tượng khác là tín hiệu phát sáng, tín hiệu vô tuyến, nhận dạng bằng các phương tiện điện tử.

Việc phân biệt này đóng vai trò vô cùng quan trọng để trong tình thế chiến tranh diễn ra quyết liệt, để đánh bại được đối phương các bên thường hành động nhanh chóng, tức khắc. Nếu không có sự phân biệt này thì các đối tượng được bảo hộ rất dễ bị xả súng vô tổ chức. Như vậy, sử dụng biểu tượng phân biệt có ý nghĩa bảo vệ quyền lợi của một nhóm người không liên quan đến cuộc chiến, qua đó hạn chế được thiệt hại xảy ra.

2.3.2. Bảo vệ các nhân viên tôn giáo

2.3.2.1. Định nghĩa các nhân viên tôn giáo

Theo Điều 8 (d) Nghị định thư (I) nhân viên tôn giáo là tất cả những người mà thỏa mãn ba điều kiện sau [44, tr.370]:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.

Thứ nhất, đối tượng là bất kể người nào, dù là binh lính hay dân thường, ví dụ: giáo sĩ tuyên úy

Thứ hai, những đối tượng trên chỉ chuyên thực hiện chức năng tôn giáo, tín ngưỡng

Bảo vệ quyền con người trong bốn Công ước Geneva về việc bảo hộ nạn nhân chiến tranh - 9

Thứ ba, những đối tượng này thuộc một trong các lực lượng sau: các lực lượng vũ trang của một bên trong cuộc xung đột hoặc các đơn vị y tế hay các phương tiện vận tải y tế của một bên trong cuộc xung đột hoặc các đơn vị y tế hay các phương tiện vận tải y tế thường trực (trừ các tàu bệnh viện) cũng như các nhân viên thuộc các nước và các tổ chức được cử sang với mục đích nhân đạo bao gồm: (a) một nước trung lập hay một nước khác không tham gia xung đột; (b) một tổ chức cứu trợ được một nước như vậy công nhận và cho phép hoạt động; (c) một tổ chức quốc tế vô tư có tính chất nhân đạo; (d) các tổ chức bảo hộ dân sự của một Bên trong cuộc xung đột.

2.3.2.2. Quy tắc bảo vệ các nhân viên tôn giáo [45, tr.327]

Quy tắc bảo hộ nhân viên tôn giáo xuất phát từ quyền con người của họ, bản thân họ là một trong những đối tượng nằm ngoài cuộc chiến, chiến tranh là sự hợp pháp tước đi mạng sống của lực lượng vũ trang của các bên tham chiến, nhưng thật bất công khi tước đi mạng sống của những người này. Họ là những người giúp đảm bảo nhu cầu tâm linh cho tù binh và dân thường, xuất phát từ nghĩa vụ của họ hoặc đôi khi xuất phát từ cái tâm, từ sự nhân đạo. Khi chiến tranh xảy ra, đặc biệt là các tù binh ở trong tù tình trạng chán trường, mệt mỏi của chiến tranh thì nhu cầu tâm linh là cần thiết hơn bao giờ hết, giúp họ tạo được niềm tin trong cuộc sống.

Về nguyên tắc, các nhân viên tôn giáo phải được tôn trọng và bảo vệ trong mọi trường hợp, bất kỳ sự tấn công nào mà nhằm trực tiếp vào các nhân viên tôn giáo hoặc bất kỳ hành động nào xâm phạm các quyền của họ đều bị coi là sự vi phạm nghiêm trọng và có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật quốc tế, nghiêm cấm các hành vi trả thù nhằm vào họ. Họ không bị bắt buộc làm việc gì khác ngoài chức năng tôn giáo của họ, được tạo điều kiện để tổ chức các nghi lễ tôn giáo, giúp đỡ về mặt tâm linh, tổ chức an táng, nhận và chuyển những lời di chúc của các tù binh sắp chết hoặc cung cấp tài

liệu tôn giáo. Các bên xung đột cần phải tạo điều kiện cho nhân viên tôn giáo trợ giúp về mặt tâm linh đối với những người sắp chết. Họ được phóng thích, hồi hương không chậm trễ ngay sau khi chiến sự kết thúc.

2.3.3. Bảo vệ thường dân

2.3.3.1. Khái quát chung về thường dân

Thường dân là những người sinh sống trên những vùng đang xảy ra chiến sự, họ không tham gia chiến sự, tức không phải là chiến binh và không tham gia một phong trào nổi dậy chống lực lượng chiếm đóng, họ cần sự cứu giúp từ các lực lượng y tế, tôn giáo, các tổ chức nhân đạo quốc tế và trong nước để nhằm thoát khỏi tình trạng chiến tranh: chết chóc, đói khát…

Như vậy có thể liệt kê những trường hợp sau được coi là thường dân:

+ Thường dân của một bên sống trên lãnh thổ của bên đối phương

+ Thường dân của một bên đang nằm dưới sự quản lý của bên đối phương ở các vùng bị đối phương chiếm đóng

+ Cư dân sống trên lãnh thổ do tình thế cấp thiết chưa tổ chức thành lực lượng vũ trang chính quy, khi bị bắt thì không công khai mang vũ khí hoặc không tôn trọng luật pháp và tập quán chiến tranh

+ Nhà báo, nhân viên y tế, nhân viên tôn giáo hoạt động tự do, với tư cách cá nhân chứ không do lực lượng vũ trang cử đi.

Bên cạnh đó, để bảo vệ thường dân một cách có hiệu quả và thiết thực thì Công ước (III) và Nghị định thư (I) đã bảo vệ các mục tiêu dân sự như trường học, bệnh viện, các khu chợ dân sự… Đặc biệt, các bên còn tự thiết lập hoặc thông qua thỏa thuận để thành lập các khu vực đặc biệt để bảo vệ dân thường như khu trung lập hóa, các địa điểm không phòng thủ, các khu phi quân sự. Mặt khác, các bên còn thực hiện các hoạt động phòng vệ dân sự như: sơ tán, báo động, cứu vớt, hướng dẫn phòng tránh bằng cách chỉ cho người dân những khu vực nguy hiểm… để bảo vệ quyền cơ bản nhất của những người dân, hạn chế tối thiểu thiệt hại có thể xảy ra.

2.3.3.2. Bảo vệ thường dân trong các lãnh thổ đối phương hoặc bị đối phương chiếm đóng

* Bảo hộ chung cho cư dân trước một số hậu quả do chiến tranh [44, tr.330-304]

Đối với phần II của Công ước (IV), đối tượng được bảo hộ là tất cả cư dân của các quốc gia trong cuộc xung đột như: kiều dân, doanh nhân nước ngoài, người lao động nước ngoài làm thuê, công dân của bên đối phương tham chiến… Cư dân được trú ẩn ở các khu vực và địa điểm an toàn và bệnh viện hay các khu trung lập hóa để tự bảo vệ quyền an toàn cho mình, hoặc trong trường hợp bị thương, bị bệnh hoặc thuộc các đối tượng bảo vệ đặc biệt như phụ nữ có thai, trẻ em thì được y tế chăm sóc. Và một điều quan trọng để bảo vệ sự sinh tồn của họ khi chiến sự xảy ra, họ được quyền nhận thuốc men, lương thực và quần áo. Đồng thời, pháp luật đảm bảo cho trẻ em dưới 15 tuổi hoặc ly tán gia đình do chiến tranh sẽ không bị bỏ rơi, tạo điều kiện cho các em được thu nhận ở các nước trung lập.

Ta thấy tính phổ quát về quyền con người được áp dụng trong các quy định này rất rõ vì về nguyên tắc ai cũng có quyền sống, quyền được đảm bảo an toàn, quyền có thức ăn. Quy định này bảo vệ cả đối tượng kiều dân của một bên xung đột mà xuất phát từ các lý do liên quan đến xung đột bị quốc gia họ tước quyền tự do hay truy tố về mặt hình sự, mặc dù đối tượng này bị bỏ ngỏ ở các mục khác của Công ước (IV).

* Quy chế và việc đối xử với người được bảo hộ (tức là công dân của các quốc gia tham chiến)

Thứ nhất, trong mọi hoàn cảnh, những người được bảo vệ phải được tôn trọng về thân thể, danh dự, quyền lợi gia đình, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán. Họ phải luôn được đối xử nhân đạo và được bảo vệ, đặc biệt là trước các hành động bạo lực hoặc đe dọa bạo lực, sự xỉ vả và xoi mói của công chúng [45, tr.390]:

Sự đối xử nhân đạo này phải dựa trên cơ sở không có bất kỳ sự phân biệt bất lợi nào về chủng tộc, màu da, tín ngưỡng, tôn giáo, chính kiến hoặc mọi tiêu chuẩn tương tự khác trừ các quy định liên quan tới sức khỏe, tuổi tác và giới tính. Tuy nhiên, vì lí do chiến tranh, các bên xung đột có thể thi hành những biện pháp kiểm soát và an ninh cần thiết đối với người được bảo vệ trong tay họ.

Thứ hai, để cụ thể hóa nghĩa vụ bảo vệ thường dân, Công ước (IV) và Nghị định thư (I) đã đưa ra một số hành động cấm cụ thể [44, tr.311-312]:

+ Cấm xâm hại đến tính mạng, sức khỏe thân thể hay tinh thần của con người như giết hại, tra tấn dưới mọi hình thức (tinh thần hay thân thể), sử dụng cực hình, cắt bỏ các bộ phận trên cơ thể, thí nghiệm y học và khoa học hoặc xâm hại đến nhân phẩm con người như làm nhục, cưỡng bức làm mại dâm, cưỡng hiếp.

+ Cấm cưỡng bức về mặt thể chất hoặc tinh thần người được bảo hộ để buộc họ hoặc bên thứ ba cung cấp tin tức.

+ Cấm các hình phạt tập thể, cướp bóc, trả thù.

Thứ ba, khi các bên xung đột tấn công, để bảo vệ dân thường, Nghị định thư (I) (các Điều 51,52,53,54,55,56) quy định một số dạng tấn công bị cấm [44, tr.392-395]:

+ Cấm tấn công hoặc đe dọa tấn công với mục đích gây khủng khiếp cho thường dân hoặc với mục đích trả thù vào thường dân, các cá nhân dân sự, mục tiêu dân sự hoặc tấn công không phân biệt tức là tấn công không nhằm vào một mục tiêu quân sự nhất định nào hoặc sử dụng các phương pháp hay phương tiện chiến đấu mà tác hại của nó không thể giới hạn vào mục tiêu quân sự.

+ Cấm hoặc hạn chế tiến hành một số phương pháp chiến tranh tác động trực tiếp đến đời sống của thường dân:

(i) gây nạn đói [45, tr.108]

Theo Nghị định thư(I) Điều 54(2) và Nghị định thư (II) Điều 14 đều quy định cấm sử dụng nạn đói như là một phương chiến tranh để chống lại dân thường, dù bất cứ lí do gì, đồng thời yêu cầu các bên tham chiến phải bảo vệ những tài sản thiết yếu cho sự sống còn của thường dân (cụ thể là đất đai canh tác, công trình thủy lợi, nguồn nước, giống vật nuôi, cây trồng…) không được tấn công, phá hủy, lấy đi hoặc làm mất giá trị sử dụng hoặc biến các tài sản đó thành đối tượng của các cuộc trả thù trừ trường hợp ngoại lệ thì các bên tham chiến có thể sử dụng tài sản ấy tuy nhiên có những điều kiện cụ thể và các bên phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định đó.

(ii) Cưỡng bức lao động hoặc cưỡng bức tuyển dụng vào quân đội [45, tr.111]:

Những hành động này diễn ra khá phổ biến trong các cuộc xung đột vũ trang trước đó và vẫn xảy ra trong chiến tranh hiện đại,

Những thường dân bị bắt với những cáo buộc vi phạm nhỏ nhặt, và các bên tham chiến viện lý do đó để buộc thường dân phải phục dịch, cưỡng bức lao động hoặc ép phải làm việc tại các chốt kiểm soát nơi bên đối phương đang giao chiến nếu không làm thì sẽ tra tấn trong thời gian giam giữ hoặc dọa giết nếu không chịu hợp tác [47].

Tình trạng này theo báo cáo của tổ chức theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch vẫn còn tồn tại ở miền Đông Ukraine. Hơn nữa, việc ép dân thường vào nhập ngũ là tình trạng cũng rất phổ biến trong lịch sử, đẩy họ vào tình trạng làm bia đỡ đạn cho bên tham chiến như trong một số giai đoạn của cuộc chiến tranh Việt Nam, thực dân Pháp và Mỹ đã từng đưa những người dân Việt Nam làm bia đỡ đạn trong chiến tranh thuộc địa. Chính vì thế các quy định về tuyển quân, lao động có ý nghĩa rất quan trong trong việc bảo vệ quyền lợi của thường dân.

Theo Điều 51 Công ước (IV), thường dân sẽ không bị ép buộc phải phục vụ trong các lực lượng vũ trang đối phương; nghiêm cấm những hành động gây sức ép hay tuyên truyền để lôi kép, ép buộc thường dân phải nhập ngũ đặc biệt là trẻ em dưới 15 tuổi. Các quốc gia chiếm đóng chỉ có thể bắt buộc thường dân phải lao động nếu họ trên 18 tuổi, họ không phải thực hiện những công việc liên quan đến quân sự mà chỉ làm các công việc như dịch vụ công ích, phục vụ ăn, ở, mặc… tức là các công việc thuộc lĩnh vực dân sự. Họ được đảm bảo những điều kiện khi làm việc như thù lao, trang thiết bị, số giờ làm việc, hưởng tai nạn, bệnh nghề nghiệp.

Thứ tư, thường dân ở trong các lãnh thổ đối phương hoặc bị chiếm đóng hoặc thuộc sự kiểm soát của một bên xung đột được quyền hưởng các hoạt động cứu trợ:

Thường dân sẽ được hưởng sự trợ giúp cả về vật chất lẫn sức người. Sự trợ giúp về mặt vật chất như thuốc men, quần áo, thực phẩm thiết yếu… để đảm bảo sự tồn tại của họ. Trợ giúp về sức người tức là các nhân viên cứu trợ, đặc biệt là phục vụ việc vận tải và phân phát hàng cứu trợ. Các quốc gia phải có trách nhiệm tạo điều kiện, tiếp nhận, bảo vệ các lô hàng cũng như tôn trọng những nhân viên cứu trợ để hoạt động nhân đạo này có thể phát huy một cách hiệu quả trong việc bảo vệ quyền con người của người dân trừ những trường hợp ngoại lệ đặc biệt.

2.3.4. Bảo vệ những đối tượng đặc biệt trong xung đột vũ trang (phụ nữ, trẻ em, phụ nữ có thai)

Phụ nữ và trẻ em luôn là đối tượng cần được chăm sóc và bảo vệ không chỉ trong thời bình mà còn trong thời chiến. Bởi họ rất dễ bị lạm dụng, lợi dụng tình dục hoặc cưỡng bức sức lao động khiến họ phải chịu nỗi đau về thể xác và tinh thần hoặc đối với trẻ em thực sự rất đáng thương nếu bị đẩy vào chiến trường làm bia đỡ đạn. Điều này dễ khiến họ bị đẩy vào tình trạng

Xem tất cả 134 trang.

Ngày đăng: 21/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí