dựng quan niệm mới về tố cáo và thủ tục giải quyết tố cáo. Đồng thời, Luận án cũng xuất phát từ lý thuyết về quyền và bảo vệ quyền để nghiên cứu, làm rõ hơn khái niệm, đặc điểm của bảo vệ người tố cáo theo pháp luật hành chính, phương thức, biện pháp bảo vệ người tố cáo theo pháp luật hành chính, các yếu tố tác động đến việc bảo vệ người tố cáo theo pháp luật hành chính ở Việt Nam.
- Trên phương diện thực tiễn: Luận án nghiên cứu, làm rõ quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ người tố cáo; đánh giá toàn diện thực trạng pháp luật về bảo vệ người tố cáo ở Việt Nam hiện nay, trên các mặt đã làm được, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó. Bên cạnh đó, Luận án cũng nghiên cứu sâu, đánh giá cụ thể về thực trạng thực hiện bảo vệ người tố cáo theo pháp luật hành chính ở Việt Nam, những kết quả đạt được, những hạn chế, tồn tại cần giải quyết, khắc phục và nguyên nhân khách quan và chủ quan của những hạn chế, yếu kém đó.
- Luận án đề xuất những giải pháp khả thi, phù hợp, khoa học cả trong ngắn hạn và dài hạn nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả bảo vệ người tố cáo theo pháp luật hành chính ở nước ta trong thời gian tới.
1.3. Cơ sở lý thuyết
1.3.1. Một số lý thuyết dự kiến sử dụng
- Luận án tiếp cận vấn đề bảo vệ người tố cáo từ góc độ lý thuyết về quyền con người và bảo vệ quyền con người.
+ Theo lý thuyết về quyền con người thì những quyền như: quyền được sống, quyền được tôn trọng danh dự, nhân phẩm, được bất khả xâm phạm về thân thể, được tự do ngôn luận, tự do chính kiến, tự do tín ngưỡng, được tham gia vào các quá trình chính trị... là những điều kiện cần thiết để con người tổ chức đời sống trong xã hội văn minh và cần được nhà nước thừa nhận và bảo vệ một cách vô điều kiện. Quyền con người ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính chất của nhà nước vì rằng nó chính là “người hạn chế“ quyền lực vô hạn của nhà nước, góp phần xác lập tính dân chủ giữa nhà nước và cá nhân khỏi sự bảo trợ đặc biệt, sự trấn áp ý chí và lợi ích của cá nhân nhìn từ phía các cơ quan nhà nước [156, tr.13-14].
+ Trên phương diện lý luận về bảo vệ quyền con người thì cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền con người được hiểu là những thể chế, thiết chế do toàn nhân loại xã hội, do nhà nước tạo ra nhằm bảo đảm, bảo vệ quyền con người ở cấp độ toàn cầu, khu vực và ở từng quốc gia. Ở cấp độ quốc gia, cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền con người bao gồm cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền con người mang tính chất nhà nước và cơ chế xã hội bảo đảm, bảo vệ quyền con người [87, tr.9-14]. Bảo vệ quyền con người bằng các hình thức pháp lý hành chính và bảo vệ quyền con người bằng Tòa án là những cơ chế pháp lý quốc gia bảo vệ quyền con người [158, tr.201-283].
- Lý thuyết về Nhà nước pháp quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, trong đó thể hiện những trụ cột chính như: cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân [21], [43]. Vì thế, trong mối liên hệ biện chứng, bảo vệ người tố cáo là yêu cầu khách quan trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân ở nước ta hiện nay.
- Lý thuyết về khoa học luật hành chính với quan niệm phổ biến Luật hành chính là ngành luật về quản lý hành chính nhà nước [86], [137]. Đối tượng điều chỉnh của Luật hành chính là các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Chủ thể bắt buộc trong các quan hệ trên là cơ quan hành chính nhà nước hoặc cá nhân, tổ chức nhân danh quyền hành pháp [86], [137].
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo vệ người tố cáo theo pháp luật hành chính ở Việt Nam - 2
- Các Công Trình Nghiên Cứu Trực Tiếp Về Bảo Vệ Người Tố Cáo
- Về Những Kết Quả Nghiên Cứu Mà Luận Án Sẽ Kế Thừa, Tiếp Tục Phát Triển
- Khái Niệm, Đặc Điểm Của Tố Cáo Theo Pháp Luật Hành Chính
- Khái Niệm, Đặc Điểm Của Bảo Vệ Người Tố Cáo Theo Pháp Luật Hành Chính
- Đặc Điểm Cơ Bản Của Bảo Vệ Người Tố Cáo Theo Pháp Luật Hành Chính
Xem toàn bộ 189 trang tài liệu này.
1.3.2. Giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu
1.3.2.1. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết là thực trạng pháp luật về bảo vệ người tố cáo và thực trạng thực hiện bảo vệ người tố cáo theo pháp luật hành chính ở Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác phòng, chống tham nhũng, phòng, chống vi phạm pháp luật, yêu cầu bảo vệ người tố cáo, bảo vệ quyền con người. Trên cơ sở đó, cần nghiên cứu, tìm ra được những giải pháp khả thi, phù hợp, khoa học nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ người tố cáo theo pháp luật hành chính ở Việt Nam trong thời gian tới.
1.3.2.2. Các câu hỏi nghiên cứu
Trong phạm vi của đề tài, tác giả Luận án nhận thấy cần phải giải đáp được các câu hỏi nghiên cứu chủ yếu sau:
- Bản chất thực sự của bảo vệ người tố cáo theo pháp luật hành chính là gì? Tại sao người tố cáo phải được bảo vệ? Bảo vệ người tố cáo theo pháp luật hành chính được thực hiện bằng những cơ chế, phương thức, biện pháp nào?
- Pháp luật hành chính về bảo vệ người tố cáo ở Việt Nam hiện nay đã đáp ứng được yêu cầu bảo vệ người tố cáo chưa? đang đặt ra những vấn đề gì? Tình trạng người tố cáo bị đe dọa, trả thù, trù dập, phân biệt đối xử trong thời gian qua xảy ra như thế nào? Công tác bảo vệ người tố cáo trong thời gian qua được thực hiện như thế nào? Còn những hạn chế, bất cập gì cần phải giải quyết, khắc phục?
- Cần có những giải pháp gì để nâng cao hơn nữa hiệu quả bảo vệ người tố cáo theo pháp luật hành chính ở Việt Nam?
Tiểu kết Chương 1
Qua nghiên cứu về tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề Luận án cần giải quyết, tác giả Luận án rút ra một số kết luận sau:
- Ở trong nước và nước ngoài đã có nhiều công trình nghiên cứu về quyền con người, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, về tố cáo, quyền tố cáo và việc xử lý, giải quyết tố cáo. Đồng thời, cũng có một số công trình nghiên cứu trực tiếp về vấn đề bảo vệ người tố cáo. Các công trình nghiên cứu đó đã cung cấp những vấn đề mang tính phương pháp luận, một số vấn đề lý luận để Luận án kế thừa và tiếp tục phát triển.
- Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu còn có những vấn đề lý luận chưa được làm rõ, như: bản chất thực sự của tố cáo; khái niệm, đặc điểm, những yêu cầu khách quan về mặt lý luận - pháp lý của bảo vệ người tố cáo theo pháp luật hành chính; phương thức, biện pháp bảo vệ người tố cáo theo pháp luật hành chính; các hình thức pháp lý hành chính, các hình thức chế tài xử lý trong việc bảo vệ người tố cáo; các yếu tố tác động đến việc bảo vệ người tố cáo theo pháp luật hành chính ở Việt Nam. Đặc biệt là chưa có công trình nghiên cứu trong nước nào xem xét vấn đề bảo vệ người tố cáo trên phương diện lý luận về quyền và bảo vệ quyền, tiếp cận theo hướng một quyền vốn có, tự thân, cần thiết của người tố cáo, quyền con người của người tố cáo. Các công trình trong nước khi nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ người tố cáo và thực tiễn bảo vệ người tố cáo ở Việt Nam cũng còn đánh giá chưa toàn diện, thiếu cụ thể, hầu như chưa chỉ rõ những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của chúng để có những giải pháp sát đúng khắc phục những tình trạng đó. Trong khi đó, các công trình nghiên cứu nước ngoài do điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nên phần lớn tập trung tiếp cận vấn đề bảo vệ người tố cáo trên phương diện hình sự, tố tụng hình sự, phân tích, đánh giá về thực tiễn bảo vệ nhân chứng, người tố giác tội phạm vì thế dẫn đến nhiều khó khăn trong việc tham chiếu so sánh kinh nghiệm của các nước trên thế giới với việc bảo vệ người tố cáo ở Việt Nam.
- Những vấn đề mà Luận án xác định phải giải quyết là tập trung nghiên cứu, làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận về tố cáo và bảo vệ người tố cáo theo pháp luật hành chính dựa trên tinh thần toàn diện, khoa học và đổi mới. Luận án cũng nghiên cứu, làm rõ quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ người tố cáo ở Việt Nam; đánh giá toàn diện thực trạng pháp luật về bảo vệ người tố cáo hiện nay. Đồng thời, nghiên cứu sâu, đánh giá cụ thể về thực trạng thực hiện bảo vệ người tố cáo theo pháp luật hành chính ở nước ta trong thời gian qua, những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập cần giải quyết và nguyên nhân khách quan và chủ quan của những hạn chế, yếu kém đó. Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án đề xuất những giải pháp khả thi, phù hợp, khoa học cả về trước mắt và lâu dài nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả bảo vệ người tố cáo ở nước ta trong thời gian tới.
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NGƯỜI TỐ CÁO THEO PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH
2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của bảo vệ người tố cáo theo pháp luật hành chính
2.1.1. Khái niệm tố cáo theo pháp luật hành chính
2.1.1.1. Một số quan niệm chung về tố cáo
Tố cáo là một hiện tượng xã hội khách quan. Quan niệm về tố cáo được tiếp cận trên nhiều phương diện khác nhau.
Theo nghĩa thông dụng, tố cáo được hiểu là việc nêu ra, vạch trần những hành vi sai trái hoặc tội ác trước cơ quan có thẩm quyền hoặc trước dư luận. Theo nghĩa từ vựng, tố cáo là ''vạch rõ tội lỗi của kẻ khác trước cơ quan pháp luật hoặc trước dư luận'' [71]. Như vậy, tố cáo không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa cá nhân với Nhà nước, mặc dù đây là mối quan hệ quan trọng nhất, chủ yếu nhất, mà còn phản ánh mối quan hệ, thái độ của cá nhân với tư cách là một chủ thể tích cực với tập thể, với cộng đồng, xã hội. Đó là việc thông tin đến cả cộng đồng, nói cho mọi người rõ về sai phạm hoặc tội lỗi của một chủ thể khác, một người hoặc nhóm người khác, để dùng dư luận, sức mạnh của tập thể, của cộng đồng để phán xét, lên án và đi đến bài trừ cái xấu, cái ác, cái phi nhân tính, phi đạo đức, vi phạm pháp luật, vi phạm chuẩn mực của xã hội. Đây cũng chính là nét ngữ nghĩa đời thường của tố cáo.
Trên phương diện xã hội, tố cáo biểu thị sự bất bình của cá nhân đối với hành vi, việc làm sai trái của cá nhân khác, của một tổ chức nào đó trong cộng đồng, xã hội với mong muốn những hành vi, việc làm đó phải bị lên án, xử lý, bài trừ nhằm duy trì và gìn giữ những điều tốt đẹp, chuẩn mực trong tổ chức, cộng đồng, trật tự xã hội. Trên phương diện này, tố cáo không chỉ được điều chỉnh bằng pháp luật (tố cáo có tính chất pháp lý) mà tố cáo theo một nghĩa rộng lớn hơn, còn được điều chỉnh bằng các quy phạm xã hộ i khác (tố
cáo không mang tính pháp lý) như tố cáo trong các tổ chức xã hội được điều chỉnh bởi điều lệ, quy chế của tổ chức xã hội đó hoặc các quy phạm xã hội khác. Tố cáo, theo một nghĩa rộng, hướng đến bất kỳ sự vi phạm xã hội nào [84, tr.3].
Trên phương diện tâm lý xã hội, tố cáo phản ánh ý thức tự giác, thái độ chủ động, tích cực của cá nhân với tư cách là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng, của xã hội trong đấu tranh, chống lại những hành vi, việc làm không đúng đắn, sai trái, gây tổn hại đến lợi ích công cộng nhằm xây dựng một cộng đồng, xã hội tốt đẹp hơn, những thiết chế quản lý minh bạch, hiệu quả hơn. Vì thế, cần phải rất chú ý khuyến khích mặt tích cực này của cá nhân cũng tức là xây dựng cho được những cơ chế bảo đảm, bảo vệ về mặt nhà nước và xã hội hữu hiệu để cá nhân dễ dàng thực hiện việc tố cáo và tố cáo đúng đắn, có trách nhiệm.
Trên phương diện chính trị - pháp lý, tố cáo được nhìn nhận dưới hai góc độ: tố cáo là quyền con người và tố cáo là một chế định dân chủ. Trước hết, về mặt pháp lý, đây là quyền con người. Quyền tố cáo được hiểu là khả năng của cá nhân, của công dân, của mỗi người thực hiện các hành vi phát hiện và thông báo chính thức cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về mọi việc làm trái pháp luật. Chủ thể của quyền tố cáo là bất kỳ ai biết được việc làm vi phạm pháp luật đều có quyền báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi phạm pháp luật đó [84, tr.4]. Tố cáo hướng tới bất kỳ hành vi vi phạm nào nên có phạm vi rất rộng, phát sinh trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như trong các lĩnh vực quản lý nhà nước [85, tr.23]. Đối tượng bị tố cáo có thể là mọi hành vi vi phạm pháp luật, nhưng ngoài ra còn có các hành vi khác không nhất thiết là vi phạm pháp luật như quản lý yếu kém, lãng phí ngân khố, lạm dụng quyền lực, và các hành vi tham nhũng khác cũng như trong một số trường hợp là vi phạm quyền con người [202].
Quyền tố cáo được pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới công nhận, tôn trọng và bảo vệ. Tố cáo là quyền con người, một cấu phần của quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt quan điểm của cá nhân [73], [170]. Trong Hiến pháp Mỹ - Hiến pháp thành văn đầu tiên - quyền KN, TC được quy định
trong cùng một điều khoản với quyền tự do ngôn luận, như là một biểu hiện của quyền tự do ngôn luận. Tuyên ngôn Nhân quyền quốc tế và Công ước về quyền dân sự và chính trị cùng ở Điều 19 đều quy định: “Mọi người đều có quyền tự do biểu đạt, quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ” [67, tr.7-8].
Ở Việt Nam, tố cáo là quyền con người được Hiến pháp ghi nhận. Theo quy định của Hiến pháp sửa đổi năm 2013, không chỉ “công dân” mà “mọi người” đều có quyền tố cáo, tố cáo là quyền con người, quyền của mỗi người. Quyền tố cáo gắn bó mật thiết với quyền khiếu nại và đều được quy định trong cùng một Điều của Hiến pháp, vì đối tượng hướng tới đều là những việc làm trái pháp luật, hành vi vi phạm pháp luật, đều là quyền bảo vệ quyền. Cùng với quyền khiếu nại, quyền tố cáo có mối liên quan chặt chẽ với các quyền con người, quyền công dân khác và chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đây chính là công cụ, phương tiện để mỗi người, công dân đấu tranh chống lại các hành vi trái pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Trên phương diện chính trị - pháp lý, cùng với khiếu nại, tố cáo còn được xem là một chế định của nền dân chủ trực tiếp để mỗi cá nhân, từng người dân thông qua đó thiết thực tham gia vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Trong thư gửi đồng bào Liên khu IV, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Khi ai có điều gì oan ức thì có thể do các đoàn thể tố cáo lên cấp trên. Đó là quyền dân chủ của tất cả công dân Việt Nam. Đồng bào cần hiểu rõ và khéo dùng quyền ấy” [53, tập 6, tr.65-66]. Tố cáo còn là một trong những phương thức thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Thông qua giải quyết tố cáo, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có điều kiện phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật