có xung đột. Nếu không được cần sử dụng các thoả thuận trong các hiệp định về tư pháp song phương hoặc đa phương (nếu đã ký kết) giữa các quốc gia có xung đột đó. Một số trường hợp cần đi đến giải pháp cuối cùng để có thể đưa ra quyết định áp dụng pháp luật được là phải nhờ đến phán quyết của trọng tài quốc tế hoặc toà án quốc tế. Trường hợp xung đột này, thường ít xảy ra trên thực tế trong lĩnh vực Giao thông vận tải.
- Không có quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp luật đối với sự kiện, quan hệ đó. Đây là thực trạng pháp lý có thể xảy ra ở bất cứ quốc gia nào ngay cả đối với những quốc gia có hệ thống pháp luật hoàn thiện ở mức độ cao. Thực tiễn pháp lý nước ta có cách giải quyết đối với tình huống này bằng việc áp dụng pháp luật tương tự.
Thứ ba: Đưa ra quyết định áp dụng pháp luật.
Đây là giai đoạn quan trọng bởi nó phản ánh kết quả thực tế của quá trình áp dụng pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền. Về bản chất, đây là giai đoạn chuyển hóa những quy định chung được nêu ra trong các quy phạm pháp luật thành những qui định cụ thể, cá biệt. Các quyết định áp dụng pháp luật được đưa ra phải đảm bảo tính khách quan, hợp pháp cũng như sự phù hợp cả về nội dung và hình thức. Sự phù hợp của quyết định áp dụng pháp luật được đưa ra cần phải xem xét ở cả hai khía cạnh là pháp lý và thực tế. Theo đó, mức độ cá thể hóa càng chi tiết, sát thực về nội dung, yêu cầu và đảm bảo khách quan thì quyết định áp dụng pháp luật càng chính xác, hiệu quả. Quyết định áp dụng pháp luật có thể được thể hiện bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Việc các quyết định áp dụng pháp luật được thể hiện bằng lời nói trên thực tế không phổ biến nhưng không có phải là không có trong thực tiễn lịch sử pháp lý. Thực ra đây là hình thức mệnh lệnh có tính chất pháp lý bất thành văn tồn tại chủ yếu ở các chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Trong giai đoạn hiện nay, việc sử dụng hình thức mệnh lệnh này không còn
phổ biến nhưng trong một số trường hợp do điều kiện thực tế không cho phép hoặc không cần ban hành văn bản áp dụng pháp luật thì phải sử sử dụng nó. Chẳng hạn, người chỉ huy các tàu chiến hoặc máy bay chiến đấu đưa ra quyết định trong trường hợp khẩn cấp.
Thứ tư: Tổ chức thực hiện trên thực tế quyết định áp dụng pháp luật đã được ban hành và đã có hiệu lực pháp lý.
Trước hết có thể nói, hiện nay trong khoa học và thực tiễn pháp lý nước ta còn có ý kiến khác nhau đối với giai đoạn này. Có ý kiến khẳng định, đây không phải là một giai đoạn trong qui trình áp dụng pháp luật. Qui trình áp dụng pháp luật có kết quả cuối cùng là đưa ra quyết định áp dụng pháp luật. Việc tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật không phải lúc nào cũng là hoạt động có tính liên tục được thực hiện ở cùng chủ thể đưa ra quyết định đó. Chẳng hạn, toà án xét xử vụ án dân sự và ban hành ra bản án hoặc quyết định về vụ án đó nhưng việc tổ chức thi hành án lại do cơ quan thi hành án dân sự thực hiện. Tuy nhiên cũng có quan điểm khác cho rằng, tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật cần phải coi là một giai đoạn của qui trình áp dụng pháp luật. Mặc dù không phải lúc nào chủ thể đưa ra quyết định áp dụng pháp luật cũng đồng thời tổ chức thực hiện quyết định đó. Xét theo quan điểm toàn diện cho thấy, về mặt nội dụng, mục đích của việc áp dụng pháp luật phải được cụ thể hoá trên thực tế. Đó là một qui trình thống nhất và toàn vẹn của nhiều yếu tố liên thông, là kết quả của việc chuyển hoá cái chung của qui định của pháp luật thành cái riêng, cụ thể vào đời sống thực tiễn. Áp dụng pháp luật chỉ có giá trị thực và hiệu lực khi nội dung quyết định cá biệt được các chủ thể có liên quan tôn trọng thực hiện. Như vậy, việc chủ thể tiến hành áp dụng pháp luật không tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật của mình đưa ra hoàn toàn không phủ nhận đó là một giai đoạn cuối cùng của áp dụng pháp luật. Giai đoạn này, nằm trong trong qui trình áp dụng pháp luật
được thể hiện khá rò trong việc xử phạt hành chính thuộc lĩnh vực giao thông vận tải: thể hiện trong việc áp dụng các hình phạt bổ sung như tước quyền xử dụng giấy phép lái xe, đình chỉ thi công công trình liên quan đến quản lý hạ tầng giao thông...
Việc bảo đảm cho các quyết định áp dụng pháp luật có hiệu lực thực thi trên thực tế có ý nghĩa quan trọng bởi mục đích điều chỉnh của pháp luật mới đạt được trên thực tế. Để các quyết định áp dụng pháp luật được các chủ thể có liên quan tôn trọng thực hiện cần chuẩn bị tốt các điều kiện thiết yếu để các chủ thể đó có khả năng thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý cũng như trách nhiệm và trách nhiệm pháp lý của họ như: các điều kiện về kỹ thuật, pháp lý, tổ chức, xã hội và tư tưởng…v.v. Cần tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực thi các quyết định áp dụng pháp luật đối với các chủ thể có liên quan để đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của nó trên thực tế.
1.3. Vai trò và các trường hợp áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải
Có thể bạn quan tâm!
- Xử Phạt Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh Vực Giao Thông Vận Tải
- Đặc Điểm Của Áp Dụng Pháp Luật Xử Lý Vi Phạm Hành Chính Trong Thanh Tra Chuyên Ngành Giao Thông Vận Tải
- Các Giai Đoạn Của Hoạt Động Áp Dụng Pháp Luật Xử Lý Vi Phạm Hành Chính Trong Chuyên Ngành Thanh Tra Chuyên Ngành Giao Thông Vận Tải
- Khái Quát Đặc Điểm Tự Nhiên, Kinh Tế - Xã Hội, Đặc Điểm Giao Thông Của Hà Nội
- Tổ Chức Bộ Máy Thanh Tra Chuyên Ngành Giao Thông Vận Tải Của Thành Phố Hà Nội
- Tổng Hợp Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Thanh Tra Sở Gtvt Hà Nội
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
1.3.1. Vai trò của áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải
Vai trò của áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải được thể hiện ở những điểm căn bản sau đây:
Thứ nhất, thông qua áp dụng pháp luật có thể phát hiện những “lỗ hổng” pháp luật về giao thông vận tải để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Để hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực giao thông vận tải có hiệu quả, thì việc áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải phải đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý và phù hợp với nội dung, mục đích của pháp luật. Điều đó cũng có nghĩa là hoạt động đó không được trái với Hiến pháp và luật cũng như các quyết định
khác của cơ quan nhà nước cấp trên, phải được thực hiện bởi các chủ thể có thẩm quyền do pháp luật quy định. Hoạt động đó phải được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục và hình thức do pháp luật quy định. Hoạt động đó phải đảm bảo được lợi ích của Nhà nước và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, không tách rời giữa lợi ích của nhà nước và nguyện vọng của nhân dân. Hoạt động đó phải xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước, không xuất phát từ ý muốn chủ quan của cơ quan hành chính quyết định.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao, cơ quan thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải đã áp dụng các văn bản pháp luật của Nhà nước để xử lý những hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực giao thông vận tải. Tuy nhiên, thực tế hiện nay hệ thống văn bản pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải có nhiều nội dung không còn phù hợp, các chế tài xử phạt không được tổ chức, cá nhân vi phạm thực hiện đầy đủ. Ví dụ: Theo quy định hiện hành, việc chưa chấp hành đầy đủ các điều kiện kinh doanh theo quy định của các doanh nghiệp vận tải, việc đua xe trái phép; điều khiển phương tiện giao thông đi vào đường cấm, đường ngược chiều v.v chỉ bị xử phạt tiền với số tiền nên đến vài triệu đồng hoặc tạm giữ phương tiện trong vòng 01 tuần đó không đủ sức răn đe đối với người vi phạm.... Hơn nữa, pháp luật hiện hành chưa có đầy đủ các quy định về xử lý đối với những người có hành vi can thiệp vào việc xử lý vi phạm pháp luật về giao thông của lực lượng thanh tra giao thông, cảnh sát giao thông trong khi đang thực thi công vụ. Bên cạnh đó, các quy định về xử lý đối với người vi phạm pháp luật giao thông chống lại người thi hành công vụ với những biện pháp chế tài ở mức độ nhẹ cũng giúp phần làm cho ý thức tuân thủ pháp luật giao thông trong xã hội chưa có những chuyển biến thật sự tích cực…
Để có cơ sở đánh giá, xác định mức độ hoàn thiện của pháp luật về giao
thông vận tải, cần phải dựa vào những tiêu chí xác định về mặt lý thuyết để từ đó đối chiếu với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của từng giai đoạn cụ thể, xem xét một cách khách quan nhằm rút ra những kết luận, làm rò những ưu điểm cũng như những vướng mắc, bất cập của pháp luật về giao thông vận tải góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước về giao thông vận tải trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Thứ hai, áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải qua thanh tra chuyên ngành là phương tiện tăng cường trật tự kỷ cương, hình thành trật tự pháp luật trong lĩnh vực giao thông vận tải nhằm tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho việc phát triển về giao thụng vận tải của đất nước
Với tư cách là một yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, áp dụng pháp luật có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự ổn định và phát triển xã hội. Điều này được thể hiện cụ thể đối với áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải, đó là:
- Đảm bảo giữ vững kỷ cương pháp chế trong quản lý nhà nước về lĩnh vực giao thông vận tải. Áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính về giao thông vận tải, bao gồm các hình thức xử phạt vi phạm và một số biện pháp xử lý hành chính khác trong lĩnh vực giao thông vận tải. Như vậy, Nhà nước sử dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải như một phương tiện để thực hiện quyền lực của mình trong quản lý, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của các đối tượng tham gia giao thông, tham gia hoạt động, sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực giao thông vận tải. Nhờ có sự quy định chặt chẽ của pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải mà các đối tượng tham gia hoạt động
trong lĩnh vực giao thông vận tải phải thực hiện một cách nghiêm túc đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đảm bảo thực hiện tốt cải cách hành chính nhà nước, giảm phiền hà, tiêu cực trong hoạt động giao thông vận tải, đảm bảo trật tự an toàn xã hội đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Thúc đẩy phát triển kinh tế theo đúng chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng. Hội nhập kinh tế đồng nghĩa với việc mở cửa nền kinh tế gắn kết nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới thành một thể thống nhất. Pháp luật quản lý nhà nước về lĩnh vực giao thông vận tải gắn liền với pháp luật về đầu tư, pháp luật doanh nghiệp, pháp luật thương mại quốc tế, bảo vệ môi trường, xây dựng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng… và đi đôi với nó là các quy định bắt buộc phải thực hiện, các quy định cấm, các thủ tục phải tuân theo. Điều này, đồng nghĩa với việc nếu vi phạm các quy định này đều bị xử phạt hành chính. Hội nhập kinh tế đòi hỏi phải tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, công khai và minh bạch nhằm xác lập các điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư phát triển công nghiệp và cơ sở hạ tầng giao thông, đòi hỏi pháp luật phải thông thoáng, công khai, minh bạch, thống nhất và đồng bộ. Như thế pháp luật sẽ dễ áp dụng, dễ thực hiện; đồng thời làm giảm các vi phạm hành chính xảy ra và góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
1.3.2. Các trường hợp áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải
Sự tác động của pháp luật vào các quan hệ xã hội đạt hiệu quả cao nhất khi các quy định của nó được thực hiện một cách chính xác, triệt để trong cuộc sống. Nhưng nếu chỉ thông qua hình thức tuân thủ, thi hành và sử dụng pháp luật thì sẽ có nhiều quy phạm pháp luật không được thực hiện. Vì nhiều trường hợp, các chủ thể không muốn hoặc không đủ khả năng tự thực hiện nếu thiếu sự tham gia các chủ thể có thẩm quyền, do vậy, cần phải tiến hành áp dụng pháp luật trong các trường hợp sau đây:
Thứ nhất khi cần truy cứu trách nhiệm hành chính đối với những chủ thể vi phạm pháp luật hành chính về giao thông vận tải
Khi trong thực tế xảy ra hành vi vi phạm pháp luật thì nhà nước phải tiến hành áp dụng pháp luật để truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể đã thực hiện hành vi vi phạm đó. Ví dụ, công dân A lái xe quá tải trọng quy định (đã có hành vi vi phạm pháp luật) thì cần áp dụng pháp luật của lực lượng chức năng (thanh tra hoặc chủ thể khác có thẩm quyền) truy cứu trách nhiệm hành chính (ra quyết định xử phạt, trong đó có ấn định biện pháp và mức xử phạt cụ thể đổi với A và buộc A phải chấp hành quyết định xử phạt đó).
Thứ ba, khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể mà họ không tự giải quyết được
Đây là trường hợp quan hệ pháp luật đã xuất hiện nhưng do có sự tranh chấp giữa các bên về quyền và nghĩa vụ pháp lý nên các bên không thể thực hiện được các quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình. Nói cách khác, đây là trường hợp một quan hệ pháp luật cụ thể đã phát sinh, các chủ thể đã có quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với nhau, nhưng một trong các bên hoặc tất cả các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ pháp lý của mình nên dẫn đến tranh chấp mà họ không tự giải quyết được với nhau và yêu cầu có sự can thiệp của một chủ thể có thẩm quyền. Chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật sẽ đóng vai trò là trọng tài để giải quyết tranh chấp đó. Ví dụ, cơ quan thanh tra giải quyết tranh chấp giữa chủ phương tiện giao thông và hành khách tham gia giao thông, cơ quan tòa án giải quyết tranh chấp giữa đương sự vi phạm hành chính với cơ quan ban hành quyết định hành chính...
Thứ tư, khi cần áp dụng sự cưỡng chế hành chính của nhà nước vì lợi ích chung của xã hội
Trong đời sống xã hội, mỗi người đều có và đều quan tâm đến lợi ích
riêng của mình và những lợi ích chính đáng sẽ được nhà nước bảo hộ. Tuy nhiên, có những trường hợp đặc biệt, để bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội, của cả cộng đồng, nhà nước buộc phải xâm hại đến lợi ích riêng của những chủ thể nhất định. Để bảo đảm tính đúng đắn, hợp tình, hợp lý của sự “xâm hại” đó, nhà nước phải quy định cụ thể trong pháp luật các biện pháp “xâm hại”, chủ thể, điều kiện, trình tự, thủ tục để áp dụng các biện pháp đó. Khi một chủ thể cụ thể nào đó bị áp dụng một trong các biện pháp đó có nghĩa là họ đã phải gánh chịu sự cưỡng chế của nhà nước, họ đã phải chịu những sự thiệt hại nhất định mặc dù họ không vi phạm pháp luật mà hoàn toàn chỉ vì lợi ích chung của xã hội, của cộng đồng. Ví dụ, việc hạn chế đi lại trên một tuyến đường khi mất an toàn giao thông có thể xảy ra, việc cấm quay đầu xe tại một số điểm nhằm tránh xung đột và đảm bảo an toàn giao thông...
Thứ năm, khi cần kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể trong một số quan hệ pháp luật nhất định theo quy định của pháp luật.
Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, các chủ thể đều có quyền và nghĩa vụ nhất định do pháp luật quy định. Có những quyền và nghĩa vụ pháp lý mà việc thực hiện nó chỉ liên quan đến lợi ích của cá nhân người thực hiện, song có những quyền và nghĩa vụ pháp lý mà việc thực hiện nó lại liên quan đến lợi ích của các chủ thể khác, lợi ích chung của xã hội, của cộng đồng. Vì vậy, cần phải kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đó để đảm bảo tính đúng đắn, chính xác của nó. Hoạt động kiểm tra, giám sát đó chỉ do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Ví dụ: hoạt động kiểm tra an toàn của các phương tiện giao thông, kiểm tra, thanh tra cơ sở đào tạo cấp giấy phép lái xe, các doanh nghiệp vận tải hành khách bằng ô tô...