Tổ Chức Đại Diện Cho Người Lao Động (Tổ Chức Công Đoàn).

2.2.2 Các cơ chế bảo vệ người lao động.


2.2.2.1 Tổ chức đại diện cho người lao động (Tổ chức Công đoàn).


Công đoàn với tư cách là tổ chức được sinh ra trong quá trình phát triển công nghiệp của xã hội, là sản phẩm của công nhân lao động, mới đầu nó được lập ra đơn giản nhằm đấu tranh và hạn chế sự bóc lột của giới chủ. Cùng với sự phát triển của lao đông và sinh hoạt xã hội, Công đoàn dần chiếm được vị trí quan trọng trong hệ thống các tổ chức xã hội , cũng như đời sống người lao động.

Ví trí của Công đoàn được ghi nhận tại Điều 10 Hiến pháp 1992, Công đoàn được công nhận là tổ chức chính trị- xã hội của giai cấp công nhân và người lao động Việt nam. Luật công đoàn 30/6/1990 cũng đã xác định: “Công đoàn là tổ chức chính trị- xã hội rộng lớn nhất của giai cấp công nhân và của người lao động tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt nam, là trường học chủ nghĩa xã hội của người lao động.”

Với vị trí quan trọng như vậy, sự tồn tại của tổ chức Công đoàn có ý nghĩa quan trọng, nó hạn chế sự bóc lột của người sử dụng lao động đối với người lao động, tạo nên mối quan hệ ba bên trong lao động. Nhiệm vụ của công đoàn là đại diên cho người lao động trong mối quan hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, với người sử dụng lao động. Trong những trường hợp liên quan đến quyền lợi của thị trường lao động, của người lao động, chăm lo đến lợi ích và đời sống của người lao động, giáo dục, tuyên truyền pháp luật để người lao động hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình. . .

Để bảo vệ tốt hơn cho người lao động trong nền kinh tế thị trường cũng như thực hiện được nhiệm vụ của mình, pháp luật quy định cho Công đoàn các quyền và nghĩa vụ nhất định. Trong phương diện lao động, thẩm quyền của Công đoàn thể hiện thông qua mối quan hệ pháp lý giữa một bên là tổ chức công đoàn và một bên là người sử dụng lao động. Một mặt, công đoàn nhân

danh mình, mặt khác có quyền thay mặt cho tập thể lao động thực hiện các hành vi cần thiết để đảm bảo cho môi trường lao động luôn được hài hoà, ổn định. Công đoàn bảo vệ người lao động thông qua việc thực hiện quyền hạn của mình được pháp luật lao động quy định đó là:


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

+ Quyền tham gia xây dựng nội quy (quy chế) lao động trong doanh nghiệp. Nội quy, quy chế là văn bản quy định về các hoạt động và sử dụng lao động nhằm tăng cường và duy trì kỷ luật lao động của đơn vị, là biện pháp quản lý sản xuất và quản lý lao động. Việc ban hành nội quy, quy chế lao động là quyền của người sử dụng lao động, để nội quy này được thiết kế trên cơ sở khoa học, tuân theo các quy định của pháp luật, hạn chế những bất lợi đối với người lao động. Ban hành nội quy lao động là bắt buộc trong các doanh nghiệp hay các đơn vị hoạt động kinh tế được quy định tại Điều 1 Nghị định số 41/CP ngày 6/7/1995 của Chính phủ (đã được sử đổi bổ sung bằng Nghị định số 33/2003/NĐ - Cp ngày 02/4/2003) hướng dẫn thi hành một số điều của bộ luật lao động, và trách nhiệm vật chất, thì trước khi người sử dụng lao động ban hành nội quy lao động, phải tham khảo ý kiến ban chấp hành công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp (khoản 2 điều 82 BLLĐ). Việc tham khảo ý kiến công đoàn là bắt buộc nhằm bảo đảm tính hợp lý của các quy định khi áp dụng vào quá trình quản lý lao động.

- Tham gia ký kết thoả ước lao động tập thể. Theo quy định tại điều 11 Luật Công đoàn, chương V BLLĐ, Nghị định 196/CP ngày 31 tháng 12 năm 1994, Nghị định 93/2003/NĐ - CP ngày 11 tháng 11 năm 2002 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về thoả ước lao động tập thể thì thoả ước là văn kiện do công đoàn cơ sở và người sử dụng lao động xây dựng nên, Công đoàn có quyền chủ động đề nghị với người sử dụng lao động ký kết thoả ước lao động. Trong quá trình soạn thoả, lấy ý kiến người lao động, Công đoàn là người đại diện chủ động tham gia và thực hiện. Với sự tham gia này tạo ra nhưũng căn cứ để ràng buộc đơn vị sử dụng lao động thực

Bảo vệ người lao động bằng pháp luật lao động Việt Nam trong nền kinh tế thị trường - 10

hiện tốt, và Công đoàn lại là tổ chức đứng ra giám sát quá trình thực hiện thoả ước lao động của các bên.

- Bảo vệ người lao động khi tham gia vào việc sử lý kỷ luật lao động.


Việc xử lý kỷ luật đối với người lao động khi họ vi phạm nội quy lao động là điều cần thiết, bởi nó là yếu tố đảm bảo cho hoạt động sản xuất duy trì ổn định và hiệu quả, nâng cao ý thức của người lao động trong khi làm việc. Tuy nhiên khi tiến hành xử lý kỷ luật có nghĩa là làm ảnh hưởng đến lợi ích của người lao động, đời sống của bản thân và gia đình họ. Chính vì vậy để đảm bảo công bằng, khách quan trong việc xử lý kỷ luật lao động, Bộ luật lao động, NĐ 41/CP ngày 6/7/1995 quy định trong quá trình người sử dụng lao động xử lý kỷ luật lao động thì phải: “có sự tham gia của đại diện Ban chấp hành công đoàn cơ sở, trừ trường hợp xử lý vi phạm kỷ luật theo hình thức khiển trách bằng miệng”. Ngoài quyền tham gia, pháp luật còn quy định trong biên bản xử lý vi phạm kỷ luật cần phải có ý kiến của đại diện ban chấp hành công đoàn cơ sở, đặc biệt là hình thức kỷ luật sa thải . Sự tham gia của Công đoàn vào quá trình này là cần thiết, vì sự có mặt, góp ý kiến của công đoàn nhằm bênh vực người lao động, hạn chế sự độc đoán của người sử dụng lao động, đồng thời khi tham gia như vậy, Công đoàn nắm chắc những thông tin thực hiện quyền giám sát việc thực hiện pháp luật lao động.


* Tham gia giải quyết các tranh chấp lao động:


Với tư cách là người đại diện của tập thể lao động, bảo vệ người lao động, do đó khi có tranh chấp trong doanh nghiệp, việc giải quyết các tranh chấp đó dựa trên cơ sở, nguyên tắc luật định và phải có sự tham gia đại diện của Công đoàn (Điều 158, BLLĐ). Việc tham gia này có tính chất bắt buộc, nếu thiếu điều kiện này thì các quy định về vụ tranh chấp đó là chưa hợp pháp, vi phạm về thủ tục pháp lý.

Tuỳ vào tranh chấp lao động gì, cấp giải quyết tranh chấp nào mà sự tham gia giải quyết tranh chấp lao động của Công đoàn ở vị trí khác nhau khi giải quyết. Sự tham gia này không chỉ bó hẹp trong phạm vi một đơn vị sử dụng

lao động, mà công đoàn có thể sẽ là thành phần trong Hội đồng hoà giải lao động cơ sở; là thành viên của hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh. Ngoài ra, Công đoàn có thể đóng vai trò người đại diện hoặc người bảo vệ quyền lợi cho cá nhân người lao động hay tập thể lao động trước các cơ quan giải quyết tranh chấp lao động.


* Công đoàn và đình công: Có thể nói đình công xảy ra là khi mà lợi ích kinh tế, hay tình trạng làm việc của người lao động đã trở nên tồi tệ, người lao động không thể chấp nhận được dẫn đến ngừng việc tập thể. Pháp luật thừa nhận quyền đình công của người lao động, nhưng một mặt lại hạn chế quyền đình công này. Để cuộc đình công là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ, yêu cầu không thể thiếu đó là nó phải được sự lãnh đạo, tổ chức của Công đoàn. Với sự tổ chức của công đoàn, Công đoàn chính là tổ chức việc đối thoại giữa tập thể lao động với người chủ sử dụng lao động, với cơ quan, tổ chức hữu quan để giải quyết các tranh chấp lao động. Khi việc đối thoại không mang lại hiệu quả Công đoàn sau khi làm tất cả các thủ tục nhiệm vụ cần thiết mà pháp luật quy định có thể lãnh đạo tập thể lao động tiến hành đình công (Điều 172,173 BLLĐ).

Trong những năm gần đây, các cuộc đình công luôn có xu hướng gia tăng, nếu năm 1995 có 60 cuộc thì năm 2004 vụ đình công đã tăng lên gấp đôi.Công đoàn hiện nay có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ lao động lành mạnh thông qua hoạt độg xây dựng pháp luật, chính sách liên quan đến quyền và lợi ích của người lao động. Muốn vậy Công đoàn phải đẩy mạnh hoạt động đối thoại, hợp tác ở các cấp và tham gia phối hợp, tổ chức kiểm tra việc thực hiện pháp luật lao động, luật Công đoàn tại các doanh nghiệp. Hiện nay theo quy định tại Điều 153, BLLĐ, ở những doanh nghiệp đang hoạt động chưa có tổ chức công đoàn thì chậm nhất sau 6 tháng kể từ ngày Bộ luật lao động được sửa đổi, bổ sung có hiệu lực và ở những doanh nghiệp mới thành lập thì sau 6 tháng kể từ ngày bắt đầu hoạt động, công đoàn địa phương, công đoàn ngành có trách nhiệm thành lập tổ công đoàn tại doanh

nghiệp để đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và tập thể lao động.

Hiện nay, đình công đang là vấn đề bức xúc ở Việt nam, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tuy nhiên hầu hết các cuộc đình công của người lao động đều là sự tự phát, do bức xúc trước sự vi phạm nghiêm trọngcủa người sử dụng lao động, chủ yếu là vi phạm về tiền lương, bảo hiểm xã hội, chế độ y tế cũng nhưng không cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động. Mặc dù có nhiều bức xúc như vậy, nhưng cơ quan có thẩm quyền giải quyết lại quá chậm trễ, chưa giải quyết thảo đáng thì Công đoàn chưa thật sự là tổ chức bảo vệ cho người lao động, khi chưa có bất kỳ cuộc đình công đoàn tổ chức công đoàn đứng ra giải quyết hoặc tổ chức. Sự yếu kém của tổ chức Công đoàn hiện nay xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng có một nguyên nhân làm cho công đoàn cơ sở không thể hoạt động một cách độc lập, cũng như phát huy được các quyền năng của công đoàn, đó là các thành viên trong Ban chấp hành công đoàn là người phụ thuộc vào người sử dụng lao động, họ được người sử dụng lao động trả lương. Trước áp lực về việc làm hiện nay, họ cũng phải giữ việc làm cho chính bản thân, cho nên nếu thực thực hiện tốt chức năng của thành viên ban chấp hành công đoàn họ có thể đứng trước nguy cơ bị mất việc làm, chính vì vậy vai trò của họ cũng không được nổi bật và phát huy trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ở các doanh nghiệp trên tổ chức Công đoàn có được thành lập hay không? Thành lập và hoạt động như thế nào? thật sự có thanh tra của cơ quan có chức năng. Bởi vi phạm pháp luật lao động như không tổ chức thành lập Công đoàn chỉ là chuyện nhỏ đối với họ, trong đó có bao nhiêu lĩnh vực lao động bị vi phạm nhưng những vi phạm trên chỉ có thể bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tối đa 20 triệu đồng khi bị phát hiện.

2.2.2.2 Hoạt động quản lý Nhà nước về lao động


- Quản lý nhà nước về lao động chính là hoạt động quản lý hành chính

Nhà nước, do đó nó thuộc trách nhiệm của cơ quan hành chính Nhà nước. Hiện nay theo quy định tại Điều 181, BLLĐ, Chính phủ thống nhất quản lý

Nhà nước về lao động trong phạm vi cả nước. Để thực hiện nhiệm vụ của mình, Chính phủ với hệ thống cơ quan giúp việc của mình đã tạo nên hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương thực hiên hoạt động quản lý Nhà nước về lao động.

Cơ quan chuyên môn, giúp việc cho chính phủ quản lý nhà nước về lao động đó là Bộ lao động Thương binh và Xã hội. Cơ quan chuyên môn này thực hiện chức năng của mình ở địa phương thông qua các Sở lao động thương binh xã hội ở cấp tỉnh và Phong lao động thương binh xã hội ở cấp huyện. Các cơ quan chuyên môn này chịu sự quản lý của cơ quan có thẩm quyền chung cùng cấp theo sơ đồ sau đây.


Chính phủ

Bộ lao động Thương


Binh và Xã hội

UBND


Tỉnh

Sở lao động Thương binh và Xã hội


UBND


Huyện

Phòng lao động Thương binh và Xã hội


Hoạt động quản lý Nhà nước về lao động thể hiện thông qua các biện pháp như:

- Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật, pháp luật về lao động- xã hội; Các Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư. . .để điều chỉnh quan hệ lao động và bảo đảm các điều kiện lao động.

- Đăng ký thoả ước lao động tập thể; cấp sổ lao động, sổ lương, sổ bảo hiểm xã hội.

- Xem xét , chấp nhận các giải trình về lao động của các doanh nghiệp trong những trường hợp mà pháp luật quy định.

- Cấp giấy phép lao động cho các tổ chức và cá nhân ra nước ngoài làm việc hoặc làm việc trong các đơn vị sử dụng lao động có nhân tố nước ngoài tại Việt nam. Cấp giấy phép lao động cho các tổ chức và cá nhân nước ngoài lao động tại Việt nam.

Trong các biện pháp và hoạt đông của cơ quan quản lý Nhà nước về lao động, để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người lao động là hoạt động của cơ quan thanh tra lao động. Cơ quan thanh tra này đều được tổ chức ở tất cả các cấp của cơ quan quản lý nhà nước về lao động. Hoạt động thanh tra lao động có phạm vi thanh tra tương đối rộng và được tiến hành ở tất cả các ngành nghề của nền kinh tế quốc dân, thuộc mọi thành phần kinh tế và tất cả các đơn vị sử dụng lao động đều là đối tượng của thanh tra lao động. Thanh tra lao động, họ có quyền kiểm tra các doanh nghiệp, các đối tượng có sử dụng lao động, thanhtra lao động có quyền:


- Thanh tra việc chấp hành pháp luật lao động tại các cơ sở, các đơn vị sử dụng lao động trong việc ký kết hợp đồng lao động, việc trả lương, các vấn đề về bẩ hộ lao động, bảo hiểm xã hội, việc ký kết các thoả ước lao động tập thể. Mục đích của thanh tra lao động nhằm đảm bảo việc thực hiện đúng đắn các quy định của pháp luật trong lĩnh vực lao động, tiền lương, bảo đảm lợi ích của người lao động.

- Thanh tra về các vấn đề an toàn lao động, vệ sinh lao động. Đây chính là hoạt động chuyên ngành của thanh tra lao động. Hoạt động thanh tra này nhằm mục đích kiểm tra, đánh giá mức độ an toàn trong các dây chuyền sản xuất, khắc phục tình trạng mất an toàn, hạn chế việc xảy ra các tai nạn lao động kiểm tra điều kiện làm việc của người lao động tại các cơ sở sử dụng. Điều tra các tai nạn lao động và những vi phạm tiêu chuẩn vệ sinh lao động, phân tích, đánh giá mức độ vệ sinh

theo những tiêu chuẩn khoa học nhằm hạn chế ở mức độ cho phép, xoá bỏ tình trạng không đảm bảo vệ sinh trong lao động

- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về lao động theo quy định của pháp

luật


- Xử lý theo thẩm quyền và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền

xử lý các vi phạm pháp luật lao động.


Trên cơ sở các kết quả thu được, thanh tra lao động có quyền đưa ra các quyết định đúng đắn nhằm giải quyết vụ việc như: “ Quyết định tạm đình chỉ việc xử dụng máy móc, thiết bị nơi làm việc có nguy cơ gây tai nạn lao động, gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường lao động” (Khoản 4, điều 187,BLLĐ). Các quyết định do thanh tra lao động đưa ra có hiệu lực bắt buộc thi hành.

Như vậy, thanh tra lao động là cơ quan, là những người hết sức chủ động trong việc kiểm tra giám sát quá trình thi hành luật lao động tại các cơ sở, doanh nghiệp. Thanh tra viên lao động có quyền vào bất kỳ cơ sở nào thuộc phạm vi quản lý hoặc phạm vi ngành nghề, vào bất kỳ thời điểm nào để tiến hành thanh tra, người sử dụng lao động và những người có trách nhiệm không thể viện lý do để ngăn cản việc thực hiện quyền thanh tra của cơ quan thanh tra hoặc thanh tra viên. Đồng thời trong quá trình thanh tra, thanh tra có quyền yêu cầu người sử dụng lao động và những người liên quan cung cấp tình hình và các tài liệu liên quan tới việc thanh tra và điều tra. Chính quyền chủ động như vậy, thanh tra lao động là cơ quan có khả năng bảo vệ quyền lợi người lao động một cách tốt nhất. Nhưng thực tế hoạt động của các cơ quan này đã phát huy hiệu quả hay chưa? chúng ta đã biết, trước sức ép cạnh tranh của thị trường, nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, các địa phương có chính sách khuyến khích đầu tư khác nhau nhằm thu hút đầu tư và đồng nghĩa với việc khuyến khích, kêu gọi đầu tư như vậy đã lơ là trong việc quản lý lao động, bảo vệ quyền lợi của người lao động, việc thanh tra lao động không được thực hiện, hầu như coi đó là công việc nội bộ của doanh nghiệp, chỉ đến khi có tranh chấp lao động xảy ra, chủ yếu là tranh chấp tập thể như có đình công, lãn

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 19/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí