quan đăng ký ít phải gặp nhau để đàm phán làm rõ các vấn đề có thể chưa rõ ràng trong nội dung đơn và các giấy tờ tài liệu từ sau khi nộp đơn.
2.6 Trình tự thẩm định đơn đăng ký nhãn hiệu.
Thẩm định đơn đăng ký nhãn hiệu là quá trình cơ quan đăng ký xem xét thẩm tra về hình thức cũng như nội dung của đơn đăng ký nhãn hiệu, trên cơ sở đó sẽ quyết định cấp hay không cấp văn bằng bảo hộ. Tuy nhiên, pháp luật các nước cũng có những quy định khác nhau về thời hạn thẩm định đơn.
Theo pháp luật Mỹ, nếu đáp ứng được các yêu cầu tối thiểu về tài liệu, thông tin đơn, USPTO sẽ cấp số đơn và gửi thông báo tiếp nhận đơn. Đơn được chuyển cho xét nghiệm viên để tiến hành xét nghiệm. Công việc này có thể được thực hiện trong nhiều tháng. Xét nghiệm viên sẽ xem xét đơn đăng ký để xác định đơn có tuân thủ các quy định và có bao gồm các khoản phí theo yêu cầu hay không.
Nếu xét nghiệm viên cho rằng nhãn hiệu không thể được đăng ký thì sẽ đưa ra Thông báo trong đó giải thích những lý do từ chối chính và những thiếu sót trong đơn. Đơn xin đăng ký sẽ bị từ chối nếu:
- Nhãn hiệu tương tự đến mức gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu đã được đăng ký hoặc xin đăng ký trước (Điều 2.d Luật nhãn hiệu,15USC 1052).
- Nhãn hiệu gây ra hiểu lầm hoặc lừa dối (Điều 2.a Luật nhãn hiệu).
- Nhãn hiệu xác định một cá nhân đang sống (bao gồm tên, chân dung hay chữ ký của một người nhất định mà không được sự đồng ý bằng văn bản của người đó).
- Nhãn hiệu vi phạm đạo đức hoặc liên quan đến các vấn đề khiếm nhã, bê bối.
- Nhãn hiệu thuần tuý mô tả địa danh hoặc thuần tuý là mô tả một cách sai lầm tên địa danh khi sử dụng với hàng hóa hoặc dịch vụ (Điều2.2 Luật nhãn hiệu).
Có thể bạn quan tâm!
- Nhãn Hiệu Liên Kết Và Nhãn Hiệu Nổi Tiếng
- Những Lợi Ích Của Việc Bảo Hộ Nhãn Hiệu Ra Nước Ngoài.
- Xác Lập Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Nhãn Hiệu.
- Hình Thức Hủy Bỏ Hiệu Lực Một Nhãn Hiệu Đã Đăng Ký.
- Thẩm Quyền Hủy Bỏ Và Quyền Khiếu Nại Quyết Định Hủy Bỏ
- Cơ Quan Có Thẩm Quyền Thực Thi Pháp Luật Bảo Hộ Nhãn Hiệu
Xem toàn bộ 155 trang tài liệu này.
- Nhãn hiệu xin đăng ký trùng hoặc tương tự với quốc kỳ, huy hiệu hay huân huy chương của các nước.
Trong trường hợp chỉ có những thiếu sót nhỏ cần sửa đổi, bổ sung, xét nghiệm viên sẽ liên lạc với người nộp đơn để hiệu chỉnh. Người nộp đơn phải trả lời các thông báo của USPTO trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày gửi, nếu không đơn sẽ bị tuyên bố là hủy bỏ.
Nếu trả lời của người nộp đơn không khắc phục được những lý do dẫn đến việc đơn bị từ chối, xét nghiệm viên sẽ ra quyết định từ chối cuối cùng. Người nộp đơn có thể khiếu nại quyết định từ chối đó lên Hội đồng giải quyết khiếu nại nhãn hiệu hàng hóa.
Nếu xét nghiệm viên không phản đối việc đăng ký, hoặc nếu người nộp đơn đã khắc phục được những lý do từ chối đơn, xét nghiệm viên sẽ phê chuẩn việc công bố nhãn hiệu trên công báo chính thức, được xuất bản hàng tuần của USPTO. USPTO sẽ gửi thông báo việc công bố đơn tới người nộp đơn nêu rõ ngày công bố.
Bất kỳ người nào cho rằng việc đăng ký nhãn hiệu của người nộp đơn có thể gây thiệt hại cho mình thì trong vòng 30 ngày kể từ ngày công bố, có quyền nộp đơn phản đối đăng ký hoặc đơn xin gia hạn thời hạn nộp đơn phản đối lên Hội đồng giải quyết khiếu nại nhãn hiệu của USPTO (Điều 13.a Luật nhãn hiệu Mỹ).
Nếu không có đơn phản đối hoặc các đơn phản đối không được chấp thuận, đơn sẽ được chuyển sang giai đoạn đăng ký, theo đó:
- USPTO sẽ tiến hành cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu trong 12 tuần sau khi nhãn hiệu được công bố đối với các nhãn hiệu đăng ký dựa trên cơ sở đã được sử dụng trong thương mại hoặc dựa trên cơ sở điều ước quốc tế.
- Nếu nhãn hiệu được đăng ký dựa trên cơ sở ý định sử dụng, cũng trong khoảng thời gian trên, USPTO sẽ công bố "Thông báo chấp thuận". Sau đó, người nộp đơn có 6 tháng kể từ ngày "Thông báo chấp thuận" để:
+ Sử dụng nhãn hiệu trong thương mại và đệ trình Tuyên bố sử dụng hoặc
+ Đề nghị gia hạn 6 tháng để nộp Tuyên bố sử dụng.
Theo pháp luật Anh thì việc xét nghiệm nhằm kiểm tra đơn có đầy đủ các thông tin và tài liệu cần thiết hay không, nhãn hiệu có rơi vào một trong các dấu hiệu loại trừ hay không và việc phân nhóm sản phẩm mang nhãn hiệu đã chính xác chưa.
Nếu như một trong các yêu cầu nêu trên không được đáp ứng, cơ quan đăng ký ra thông báo thiếu sót yêu cầu người nộp đơn khắc phục những thiếu sót đó trong khoảng thời gian ấn định. Trong trường hợp các thiếu sót đó không được khắc phục,
đơn sẽ bị coi là không được nộp. Nếu người nộp đơn khắc phục được hết các thiếu sót thì đơn đăng ký nhãn hiệu đó được chấp nhận (Điều 37 Luật nhãn hiệu Anh).
Đơn nhãn hiệu sẽ được công bố tại Bản tin nhãn hiệu và kể từ ngày được công bố trong khoảng thời hạn ấn định bất kỳ bên thứ ba nào cũng có thể nộp phản đối đơn (Điều 38 Luật nhãn hiệu Anh) .
Nếu hết thời hạn phản đối mà không có phản đối nào được đưa ra, nhãn hiệu sẽ được đăng ký. Đối với các nhãn hiệu được đăng ký, ngày đăng ký cũng chính là ngày nộp đơn nhãn hiệu và cơ quan đăng ký sẽ cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu cho chủ đơn (Điều 40 Luật nhãn hiệu).
Khác với pháp luật Mỹ và Anh, theo pháp luật Nhật Bản thì các đơn đăng ký nhãn hiệu đều phải trải qua hai gian đoạn là xét nghiệm hình thức và xét nghiệm nội dung. Hiện tại Luật nhãn hiệu Nhật Bản không quy định thời hạn xét nghiệm hình thức và thời hạn xét nghiệm nội dung. Tuy nhiên, trên thực tế, nếu không có gì vướng mắc trong quá trình xét nghiệm khả năng đăng ký của nhãn hiệu thì thời gian hoàn thành đăng ký một nhãn hiệu tại Nhật Bản thông thường từ 14-24 tháng kể từ ngày nộp đơn cho đến lúc được cấp đăng ký nhãn hiệu.
Giai đoạn xét nghiệm hình thức nhằm kiểm tra xem đơn đăng ký nhãn hiệu có đáp ứng yêu cầu của hợp lệ (tài liệu có nộp đủ không, có thiếu sót thông tin gì..) hay không. Trong trường hợp phát hiện các thiếu sót về hình thức, JPO sẽ ấn định một khoảng thời gian nhất định để người nộp đơn sửa chữa những thiếu sót đó.
Nếu đơn không có gì phải sửa đổi, bổ sung, đơn đăng ký nhãn hiệu sẽ được công bố chi tiết trên công báo nhãn hiệu và chuyển sang giai đoạn xét nghiệm nội dung.
Mục đích của giai đoạn xét nghiệm nội dung là nhằm đánh giá khả năng đăng ký của nhãn hiệu theo các tiêu chuẩn bảo hộ.
Nếu nhãn hiệu đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ, xét nghiệm viên sẽ ra quyết định cấp đăng ký (Điều 16 Luật nhãn hiệu Nhật Bản).
Nếu nhãn hiệu xin đăng ký không đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ, trước khi ra quyết định từ chối chính thức, xét nghiệm viên sẽ thông báo cho người nộp đơn biết
lý do từ chối bằng cách ra thông báo lý do từ chối (Thông báo từ chối tạm thời) và ấn định một khoảng thời gian 30 ngày để người nộp đơn có thể khiếu nại thông báo này (Điều 44 Luật nhãn hiệu).
Trong trường hợp người nộp đơn có yêu cầu sử đổi danh mục hàng hóa/dịch vụ hoặc sửa đổi nhãn hiệu mà sự sửa đổi này làm thay đổi cơ bản danh mục hàng hóa/dịch vụ hoặc nhãn hiệu trong đơn, xét nghiệm viên sẽ ra quyết định bằng văn bản không chấp nhận yêu cầu sửa đổi của người nộp đơn, trong đó ghi rõ lý do (Điều 16-2 Luật nhãn hiệu Nhật Bản).
Trong trường hợp không đồng ý với sự từ chối của xét nghiệm viên, người nộp đơn có thể thực hiện việc khiếu nại trong vòng 30 ngày kể từ ngày ra quyết định (Điều 45 Luật nhãn hiệu).
Trong vòng 30 ngày kể từ ngày ra quyết định cấp đăng ký hoặc ngày quyết định của Tòa án về việc đăng ký có hiệu lực, người nộp đơn phải hoàn tất việc nộp phí đăng ký. Cục sáng chế Nhật Bản có thể gia hạn việc nộp phí nhưng không quá 30 ngày.
Đơn đăng ký nhãn hiệu sau khi hoàn tất việc đăng ký sẽ được công bố trên Công báo nhãn hiệu.
Quyền nhãn hiệu có hiệu lực tính từ thời điểm được cấp đăng ký, cụ thể từ thời điểm hoàn tất việc trả phí đăng ký.
Khác với pháp luật các nước, pháp luật Trung Quốc quy định, các đơn đã nộp sẽ được xét nghiệm về mặt hình thức và nội dung. Xét nghiệm về hình thức đơn thường kéo dài khoảng 3 tháng và nhằm xem xét đơn có đáp ứng các yêu cầu về mặt hình thức hay không bao gồm cả việc hiệu chỉnh tài liệu và phân loại hàng hóa, dịch vụ.
Xét nghiệm nội dung thường kéo dài 12 tháng và nhằm đánh giá khả năng bảo hộ của nhãn hiệu yêu cầu bảo hộ và khả năng xung đột với quyền được xác lập trước.
Sửa đổi nội dung đơn chỉ có thể được tiến hành khi cơ quan đăng ký nhãn hiệu yêu cầu. Việc sửa đổi trong giai đoạn xét nghiệm nội dung có thể dẫn tới việc
loại bỏ một phần nhãn hiệu hoặc sản phẩm/dịch vụ yêu cầu bảo hộ. Việc không đồng ý sửa đổi theo yêu cầu của Cơ quan đăng ký nhãn hiệu có thể dẫn tới hậu quả là đơn sẽ bị từ chối bảo hộ.
Cơ quan đăng ký nhãn hiệu có thể từ chối đơn đăng ký nhãn hiệu nếu, kết quả xét nghiệm cho thấy nhãn hiệu không có khả năng phân biệt hoặc giống hoặc tương tự với nhãn hiệu đã đăng ký trước cho hàng hóa, dịch vụ giống hoặc tương tự.
Trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo từ chối bảo hộ nhãn hiệu, người nộp đơn có thể nộp đơn khiếu nại lên Ban đánh giá và xét xử các vấn đề nhãn hiệu (Trademark Review and Adjudication Board), quyết định của Ban này là quyết định cuối cùng.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo từ chối, nếu không đồng ý với quyết định của Ban đánh giá và xét xử các vấn đề nhãn hiệu, người nộp đơn có quyền khởi kiện lên tòa án (Điều 32 Luật nhãn hiệu Trung Quốc).
Đơn nhãn hiệu được chấp nhận về mặt hình thức sẽ được công bố trong thời hạn 3 tháng trên Công báo nhãn hiệu được ấn hành hàng tuần nhằm phục vụ cho mục đích tiếp cận đơn. Trong vòng 03 tháng kể từ ngày đăng công báo, người thứ ba có quyền phản đối đơn đăng ký. Pháp luật Việt nam có quy định khác là sau khi đăng trên công báo và trong quá trình xét nghiệm nội dung, bất cứ bên thứ ba nào cũng có quyền nộp Phản đối đơn nhãn hiệu.
Nhãn hiệu sẽ được đăng ký nếu trong vòng 3 tháng kể từ ngày được công bố, đơn không bị phản đối hoặc nếu có phản đối và phản đối đó được quyết định là không thỏa đáng và giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu sẽ được cấp(Điều 30 Luật nhãn hiệu Trung Quốc).
Thông thường, thời gian hoàn thành một đăng ký nhãn hiệu cho một nhóm sản phẩm/dịch vụ tại Trung Quốc tình từ ngày nộp đơn đến khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu khoảng 18 tháng, nếu không có vướng mắc phát sinh trong quá trình xét nghiệm đơn.
2.7 Hiệu lực và gia hạn hiệu lực văn bằng bảo hộ.
Pháp luật Mỹ, Anh, Trung Quốc và Nhật Bản đều quy định sau khi đăng ký nhãn hiệu thông thường được bảo hộ trong một thời hạn nhất định là 10 năm. Sau đó có thể được gia hạn nhiều lần, mỗi lần 10 năm bằng việc nộp đơn xin gia hạn và lệ phí theo quy định.
Chủ nhãn hiệu thường được yêu cầu nộp đơn trong vòng 6 tháng trước khi kết thúc thời hạn bảo hộ trước (riêng đối với Mỹ là 1 năm). Việc gia hạn có thể thực hiện trong vòng 6 tháng sau khi kết thúc thời hạn nói trên và người nộp đơn phải nộp thêm khoản phí cho việc gia hạn muộn (Điều 9 Luật nhãn hiệu Mỹ 1946; Điều 42,43 Luật nhãn hiệu Anh; Điều 37,38 Luật Nhãn hiệu Trung Quốc; Điều 19,20 Luật Nhãn hiệu Nhật Bản).
Đối với nhãn hiệu nổi tiếng thì pháp luật của Anh, Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc đều có sự bảo hộ vô thời hạn kể từ khi nhãn hiệu được công nhận là nhãn hiệu nổi tiếng.
Có thể thấy rằng, quy định về hiệu lực của văn bằng bảo hộ của các nước trên là hoàn toàn phù hợp với các điều ước quốc tế và tương thích với pháp luật của các quốc gia khác. Điểm chung trong các quy định đó là thời gian bảo hộ nhãn hiệu không bị giới hạn. Điều này là do việc bảo hộ nhãn hiệu không làm cản trở sự phát triển khoa học công nghệ và không ảnh hưởng đến quyền khai thác kinh doanh thương mại của các chủ thể kinh doanh khác. Việc giới hạn về thời gian lần đầu và gia hạn chỉ là yêu cầu về mặt quản lý.
Việc quy định gia hạn hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu như trên có ý nghĩa quan trọng đối với việc chống cạnh tranh không lành mạnh. Nó khuyến khích chủ văn bằng bảo hộ sử dụng nhãn hiệu liên tục, hiệu quả và ngăn cản việc đăng ký nhãn hiệu mà không sử dụng gây trở ngại cho các chủ thể khác sử dụng các nhãn hiệu mới có khả năng phân biệt.
2.8 Vấn đề khiếu nại.
Khiếu nại liên quan đến đăng ký nhãn hiệu rất đa dạng, có thể liên quan đến quá trình nhận đơn, quá trình xét nghiệm, phản đối đơn đăng ký nhãn hiệu. Pháp
luật các nước có quy định khác nhau về thủ tục khiếu nại, khiếu kiện các quyết định của cơ quan đăng ký hay cán bộ được phân công xét nghiệm đơn.
Mỹ có các quy định chi tiết về thủ tục khiếu nại đối với các quyết định liên quan đến nhãn hiệu của cơ quan đăng ký nhãn hiệu (USPTO). Theo quy định pháp luật Mỹ thì trong bất kỳ trường hợp nào mọi hành động của cơ quan đăng ký đều có thể bị khiếu nại lên và được xử lý bởi các tòa án quận và tòa án vùng của Mỹ (Điều 39 Luật Nhãn hiệu Mỹ 1946-U.S.C 1121). Với quy định này người khiếu nại có thể khiếu nại không chỉ về các quyết định mà con về bất kỳ hoạt động hay yêu cầu nào của cơ quan đăng ký mà mình cảm thấy không đồng ý với tòa án có thẩm quyền của Mỹ ngay trong lần khiếu nại đầu tiên. Tuy nhiên để tạo điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết khiếu nại, trình tự thủ tục và các kênh khiếu nại lại được quy định khá phức tạp. Các đương sự muốn khiếu nại nên theo một trong hai thủ tục sau:
Thứ nhất, nếu việc khiếu nại liên quan đến các vấn đề về hình thức, như các yêu cầu nào đó mà người phụ trách xét nghiệm đưa ra thấy vô lý, hay người xét nghiệm thực hiện một hành vi nào đó mà người nộp đơn thấy không phù hợp với yêu cầu của pháp luật thì người khiếu nại nên gửi khiếu nại (petition) lên thủ trưởng cơ quan đăng ký (Phần 1704TMEP-Trademark Manual of Examining Procedure (TMEP). Thời hiệu khiếu nại tùy thuộc vào từng loại nội dung khiếu nại, được phân thành các trường hợp (Phần 1705.04 TMEP):
Đối với việc từ chối kéo dài thời hạn gửi thông báo phản đối đơn thời hiệu là 15 ngày.
Tuyên bố tạm thời của Hội đồng giải quyết khiếu nại nhãn hiệu của USPTO (TTAB – Trademark Trial and Appeal Board) là 30 ngày.
Đối với việc từ chối yêu cầu kéo dài thời hạn nộp báo cáo tình trạng sử dụng nhãn hiệu thời hiệu là 02 tháng.
Đối với các việc khác thời hiệu có thể là 02 tháng hoặc 06 tháng.
Thứ hai, việc khiếu nại liên quan đến các vấn đề về nội dung như các quyết định liên quan đến việc hủy nhãn hiệu, kết quả xét nghiệm đơn hay thông báo phản đối đơn đăng ký, thì người khiếu nại gửi khiếu nại lên Hội đồng giải quyết khiếu nại
nhãn hiệu. Thời hiệu gửi các khiếu nại này là 06 tháng kể từ khi có hành vi bị khiếu nại (Phần 1501 TMEP và Điều 20 Luật Nhãn hiệu Mỹ 1946 (U.S.C 1070)).
Trong thời hạn 02 tháng sau khi các cơ quan này giải quyết các đơn khiếu nại, nếu người khiếu nại không đồng ý với việc giải quyết thì có thể kiện lên Tòa Phúc thẩm thuộc Toà án liên bang Mỹ (The United States Court of Appeals for the Federal Circuit) (Điều 21 Luật Nhãn hiệu Mỹ 1946 (U.S.C 1071) và Phần 1705.09 TMEP). Quyết định của tòa này có giá trị chung thẩm và ràng buộc với cơ quan đăng ký.
Ví dụđiển hình về một vụ kiện nhãn hiệu từ khi khởi kiện đến khi kết thúc (được nêu trong Báo cáo số 281 F.3d 1261). Các bên liên quan trong vụ kiện này là hãng Hewlett - Packard và Packard Technologies.Vụ việc bắt đầu vào tháng 10/1995 khi hãng Pacckard Technologies nộp đơn xin đăng ký nhãn hiệu Pacckard Technologies cho dịch vụ xử lý dữ liệu (vi tính). Theo xét nghiệm của Cơ quan sáng chế và nhãn hiệu thì lúc đầu, đơn xin đăng ký bị từ chối, nhưng sau khi thẩm định lại, đơn đã được chấp nhận. Nhãn hiệu Pacckard Technologies được công bố trong công báo chính thức. Tháng 6/1997, hãng Hewlett - Packard gửi đơn phản đối lên Hội đồng giải quyết khiếu nại nhãn hiệu của USPTO. Nguyên đơn viện dẫn việc từ trước đã sử dụng nhãn hiệu Hewlett - Packard cho nhiều sản phẩm và dịch vụ vi tính khác nhau, đồng thời cáo buộc rằng nhãn hiệu Hewlett - Packard của bên xin đăng ký giống nhãn hiệu Hewlett - Packard của mình tới mức có thể gây nhầm lẫn.
Hội đồng giải quyết khiếu nại nhãn hiệu đã thụ lý và tiến hành giải quyết vụ việc. Các bên đưa ra các tài liệu về phiếu thăm dò ý kiến các nhân chứng, các yêu cầu trình bày các tư liệu, ác yêu cầu thừa nhận các sự việc, lời khai có tuyên thệ của nhân chứng. Sau đó các bên lấy lời khai và nộp hồ sơ tóm tắt vụ kiện cho Hội đồng và yêu cầu một phiên điều trần bằng miệng.
Tháng 9/1999, Hội đồng đưa ra quyết định kết luận rằng nhãn hiệu Packard Technologies là nhãn hiệu tương tự có khả năng gây ra nhầm lẫn với nhãn hiệu Hewlett – Packard. Hơn nữa, cả hai nhãn hiệu đều được sử dụng cho các dịch vụ vi tính.