Thực Trạng Hoạt Động Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Công Nghiệp Đối Với Nhãn Hiệu Bằng Biện Pháp Dân Sự Ở Việt Nam Và Kiến Nghị Hoàn Thiện Pháp

Như vậy, so với các căn cứ để hủy bỏ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, Luật Sở hữu trí tuệ đã bổ sung thêm trường hợp người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chứng minh được việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời với họ là không có căn cứ. Trong trường hợp này, Tòa án cũng phải xem xét để hủy bỏ việc áp dụng.‌

Có thể nói, mặc dù còn những thiếu sót nhất định nhưng các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự đã được nhấn mạnh và cụ thể hơn trước khá nhiều. Đây được xem là một bước tiến quan trọng trong ngành lập pháp nước ta, góp phần xây dựng một hệ thống các thủ tục bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ một cách kịp thời, hiệu quả, công bằng và ít phiền hà, thể hiện nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, cũng như hướng đến việc hội nhập với kinh tế thế giới. Trong tương lai, những hạn chế của các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ, pháp luật bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu sẽ được khắc phục và hoàn thiện hơn.


CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ Ở VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT.



hiệu

3.1. Thực trạng bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn


3.1.1. Thực trạng về việc xác lập quyền sở hữu đối với nhãn hiệu

thông qua việc đăng ký bảo hộ

Nhãn hiệu là một trong số những nhân tố quan trọng có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của chủ sở hữu nhãn hiệu cũng như đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người đều có quyền đương nhiên đối với một nhãn hiệu. Để được hưởng sự bảo hộ và bảo vệ của chính sách bảo hộ nhãn hiệu nói chung, chủ nhãn hiệu cần thiết tiến hành các thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền là Cục Sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ. Trên cơ sở đó, chủ nhãn hiệu có đầy đủ cơ sở pháp lý vững chắc để khẳng định quyền sở hữu hợp pháp của mình đối với nhãn hiệu. Hiện nay ở Việt Nam, thông qua các quy định trong Bộ luật Dân sự 2005, Luật Sở hữu trí tuệ 2005, các Nghị định và Thông tư hướng dẫn thi hành… thì quá trình xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được tiến hành thông qua việc nộp đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu. Đơn đăng ký nhãn hiệu được nộp cho Cục Sở hữu trí tuệ. Khi nhận được đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ

nhãn hiệu, Cục Sở hữu trí tuệ sẽ tiến hành xử lý đơn theo đúng thủ tục, trình tự mà pháp luật quy định, tức là tiến hành các hoạt động liên quan đến việc xét nghiệm hình thức và nội dung của đơn. Hiện nay, với quy định mới của Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có một số thay đổi: quy định về giấy tờ đã được rút gọn hơn, thời gian xét nghiệm đơn được rút ngắn, việc xét nghiệm đơn nhãn hiệu ngày càng được chính xác và phù hợp hơn với tình hình mới, các căn cứ quy định một nhãn hiệu được coi là đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ hay không có sự thay đổi so với trước, khắc phục được một số hạn chế so với quy định pháp luật trước đây. Nhìn chung, quy định pháp luật về đăng ký nhãn hiệu phù hợp với thông lệ quốc tế, các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, ký kết.

Theo thống kê của Cục Sở hữu trí tuệ, từ năm 1982 đến năm 2006 số đơn xin đăng ký bảo hộ nhãn hiệu của Việt Nam và nước ngoài đăng ký vào Việt Nam đã tăng lên đáng kể. Trong khoảng thời gian hai mươi lăm năm từ 1982 đến 2006, Cục Sở hữu trí tuệ đã nhận được khoảng 110.253 tổng số đơn đăng ký nhãn hiệu trong đó lượng đơn nhãn hiệu do người nộp đơn Việt Nam là 64.078 đơn (chiếm 58%) và lượng đơn do người nộp đơn nước ngoài là

46.175 đơn (chiếm 42%). Tổng lượng giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu trong thời gian này tương ứng là 78.060 giấy, số giấy chứng nhận cấp cho người nộp đơn Việt Nam là 43.345 giấy (chiếm 55,5%), cho người nộp đơn nước ngoài là 34.715 giấy (chiếm 44,5%).

Trên thực tế, lượng đơn đăng ký vào Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam có sự khác biệt theo từng khoảng thời gian nhất định. Có thể thấy, trong giai đoạn từ năm 1982 đến năm 1999, trong vòng 17 năm, tổng số đơn đăng ký bảo hộ nhãn hiệu đã nộp tại Cục Sở hữu trí tuệ là 44.139 đơn, trong đó đơn của người nộp đơn trong trong nước là 18.816 đơn, của người nước ngoài là

25.323 đơn. Tổng số giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa được cấp cũng trong thời gian từ 1982 đến 1999 là 32.995 giấy trong đó giấy chứng nhận đăng ký cấp cho người nộp đơn Việt Nam là 13.338 giấy và người nộp

đơn nước ngoài là 19.657 giấy. Có thể theo dõi lượng đơn đăng ký nhãn hiệu trong những năm qua bằng bảng số liệu sau:


Năm

Đơn nhãn hiệu quốc gia đã được nộp bởi


Người nộp đơn

Việt Nam

Người nộp đơn

nước ngoài

Tổng số

1982-1988

461

773

1234

1989

255

232

487

1990

890

592

1482

1991

1747

613

2360

1992

1595

3022

4617

1993

2270

3866

6136

1994

1419

2712

4131

1995

2217

3416

5633

1996

2323

3118

5441

1997

1645

3165

4810

1998

1614

2028

3642

1999

2380

1786

4166

2000

3483

2399

5882

2001

3095

3250

6345

2002

6560

2258

8818

2003

8599

3536

12135

2004

10641

4275

14916

2005

12884

5134

18018

2006

16071

6987

23058

Tổng số

80149

53162

133311

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự - 10



(60.1%)

(39.9%)


Bảng số liệu Đơn yêu cầu bảo hộ NH nộp trực tiếp vào Cục SHTT từ 1982-20064


Năm

Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đã được cấp cho


Người nộp đơn

Việt Nam

Người nộp đơn

nước ngoài

Tổng số

1982-1989

380

1170

1550

1990

423

265

688

1991

1525

388

1913

1992

1487

1821

3308

1993

1395

2137

3532

1994

1744

2342

4086

1995

1627

2965

4592

1996

1383

2548

3931

1997

980

1506

2486

1998

1095

2016

3111

1999

1299

2499

3798

2000

1423

1453

2876

2001

2085

1554

3639

2002

3386

1814

5200

2003

4907

2243

7150

2004

5444

2156

7600

2005

6427

3333

9760

2006

6335

2505

8840

Tổng số

43345

(55.5%)

34715

(44.5%)

78060

Bảng số liệu Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đã được cấp từ 1982 - 20065


Bảng số liệu trên cho thấy, trong suốt khoảng thời gian mười bảy năm từ 1982 đến 1999, lượng đơn nộp cũng như lượng giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu của người nộp đơn trong nước thấp hơn so với lượng đơn cũng như lượng giấy chứng nhận được cấp của người nước ngoài. Thời gian này ý thức xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu để bảo vệ tài sản nhãn hiệu chưa được chú trọng thể hiện trên số lượng đơn nộp tương ứng với thời gian theo số năm chỉ ở mức thấp.

Sang giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2006, trong vòng 6 năm số đơn nộp vào đã tăng lên rõ rệt, có cả sự thay đổi về cơ cấu lượng đơn giữa người nộp đơn trong nước và người nộp đơn nước ngoài. Tổng số đơn trong 6 năm này là 75.672 đơn trong đó đơn của người nộp đơn trong nước là 46.933 và đơn của nước ngoài là 27.839. Số giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu trong giai đoạn này là 45.065 trong đó giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu cho người nộp đơn trong nước là 30.007 giấy và của nước ngoài là 15.058 giấy. Điều này cho thấy nhận thức của xã hội về sở hữu trí tuệ nói chung và nhãn hiệu hàng hóa nói riêng đã được nâng cao, các cá nhân, tổ chức trong nước đã ý thức được rõ ràng quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong việc bảo vệ thành quả sáng tạo do mình bỏ công sức và tiền bạc làm ra. Điều này cũng chứng tỏ năng lực công tác trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp đặc biệt khả năng đăng ký xác lập quyền, cấp văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu và thủ tục giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến lĩnh vực này của đội ngũ cán bộ công chức nước ta trong những năm qua đã có nhiều cố gắng.

Hiện nay, Việt Nam là thành viên của Thỏa ước Madrid và Nghị định thư Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu. Vì vậy, ngoài thể thức nộp đơn đăng ký nhãn hiệu trực tiếp đến Cục Sở hữu trí tuệ còn tiếp nhận một số

lượng đơn của người nước ngoài là công dân của các nước thành viên Thỏa ước và Nghị định thư nộp đơn đăng ký để bảo hộ nhãn hiệu ở Việt Nam thông qua Văn phòng quốc tế của WIPO tại GENEVE (Thụy Sỹ). Theo số liệu trong khoảng từ năm 2000 đến năm 2004 đã có 10.264 đơn nhãn hiệu đã được đăng ký và bảo hộ tại Việt Nam từ nhiều quốc gia khác nhau. Để ngày càng thu hút đầu tư của nước ngoài, Việt Nam đã và đang nỗ lực để xây dựng một cơ chế bảo hộ nhãn hiệu thật sự hiệu quả. Đây là tiền đề góp phần thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển phù hợp với sự phát triển của thời đại.



hiệu

3.1.2. Thực trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn


Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn

diện, nhất là đổi mới về quản lý kinh tế, kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, khuyến khích phát triển nền kinh tế cơ chế hàng hóa nhiều thành phần, thực hiện cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thành tựu của công cuộc đổi mới đã tạo ra những chuyển biến tích cực về mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, kinh tế tăng trưởng, các sản phẩm hàng hóa phong phú, đa dạng đưa nước ta bước sang thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa, từng bước đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường đã phát sinh không ít tiêu cực, tình hình vi phạm pháp luật nói chung cũng như xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đặc biệt đối với nhãn hiệu ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp. Trong các vụ vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu này, hành vi xâm phạm thông qua việc làm hàng giả là chủ yếu. Theo số liệu từ địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thống kê trong 6 tháng đầu năm 2006, qua kiểm tra cơ quan Quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh đã lập biên bản vi phạm 1.215 vụ, thì có 47 vụ hàng giả vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Cũng tại thị trường Thành phố Hồ Chí Minh, nhiều hàng hóa giả các nhãn hiệu nổi

tiếng trên thế giới đang bày bán tại nhiều địa điểm kinh doanh với trình độ tinh vi, "giả như thật" khiến người tiêu dùng không thể nào nhận biết được như các loại kính mát Italy, giày Nike, đồng hồ tay Seiko, Citizen, Rolex, máy tính Casio, phụ tùng điện tử…Tình trạng hàng nội giả ngoại sản xuất tràn lan. Không phải chỉ có hàng Trung Quốc sản xuất giả hàng ngoại chiếm lĩnh thị trường Việt Nam đã gây khó khăn cho nhiều cơ quan chức năng, mà hàng ngoại được sản xuất giả tại nội địa cũng tràn lan, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng và làm đau đầu các cơ quan quản lý. Mới đây, một xưởng sản xuất rượu "Remus Cognac" giả, do Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất - thương mại Phú Phú thực hiện, đã bị phát hiện và lập biên bản xử lý tại xã Bình Mỹ, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Tang vật tại hiện trường gồm 14.933 chai rượu Remus Cognac và Remus XO giả, với bao bì và nắp chai hết sức tinh vi. Hay như trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn Nam Đào, nhà nhập khẩu và phân phối độc quyền sản phẩm thuốc duỗi tóc "Wellastrate"- Germany, Hội viên Hiệp Hội chống hàng giả đã phải kêu cứu về nạn hàng giả của sản phẩm này. Theo Đại diện Công ty Nam Đào, có đến gần 10 loại thuốc duỗi tóc mang nhãn hiệu "Wellastrate" giả đang được tiêu thụ rộng rãi tại thị trường Việt Nam. Hàng giả Wellastrate chẳng những duỗi tóc không thẳng

mà còn làm cho người sử dụng bị cháy tóc, xót rát và trầm trọng hơn là gây sưng tấy da đầu, rất nguy hại.6

Ngoài ra có thể liệt kê thêm một số vụ việc vi phạm điển hình khác thông qua các hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu trong suốt thời gian qua: hành vi sử dụng nhãn hiệu Chanel’s dùng cho cửa hàng thời trang số 5 phố Nhà Thờ, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội làm gây nhầm lẫn với nhãn hiệu nổi tiếng CHANEL của tập đoàn CHANEL tại địa chỉ 135, avenue Charles de Gaulle F-92200 NEUILLY-SUR-SEINE (FR) đã đăng ký theo đăng ký quốc tế số 201151. số 339124 cho sản phẩm thời trang nhóm 25. Nhãn hiệu Tài Tài của Cơ sở Tài Tài, địa chỉ 109-111 Cao Xuân Dục (Cần Giuộc cũ), phường 12, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh sử dụng phần hình ông già tương tự gây nhầm lẫn với phần hình ông già trong nhãn hiệu Tân

Xem tất cả 119 trang.

Ngày đăng: 12/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí