Thẩm Quyền Hủy Bỏ Và Quyền Khiếu Nại Quyết Định Hủy Bỏ

đó một nhãn hiệu chứng nhận có thể bị khiếu nại hủy bỏ vào bất cứ lúc nào nếu người đăng ký: (1) không khống chế hay không có khả năng thực hiện việc kiểm soát một cách hợp lý việc sử dụng nhãn hiệu đó, hoặc (2) tham gia vào quá trình sản xuất hay quảng bá bất kỳ sản phẩm hay dịch vụ nào gắn nhãn hiệu chứng nhận, hoặc (3) cho phép việc sử dụng nhãn hiệu chứng nhận không với mục đích chứng nhận, hoặc (4) từ chối một cách phân biệt việc chứng nhận hay tiếp tục chứng nhận cho các hàng hóa, dịch vụ của bất kỳ người nào có thể đáp ứng được chất lượng hay điều kiện mà nhãn hiệu đó xác nhận.

Pháp luật Trung quốc quy định trường hợp khi thay đổi tên và địa chỉ của chủ sở hữu nhãn hiệu đã đăng ký hoặc các vấn đề khác liên quan đến đăng ký nhãn hiệu mà không theo đúng thủ tục pháp lý hoặc việc chuyển nhượng nhãn hiệu đã đăng ký không theo đúng thủ tục pháp lý (Khoản 2,3 Điều 44 Luật nhãn hiệu Trung Quốc).

3.5 Thẩm quyền hủy bỏ và quyền khiếu nại quyết định hủy bỏ

Nguyên tắc chung thường cơ quan nào đã cấp đăng ký nhãn hiệu thì cơ quan đó có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ hiệu lực nhãn hiệu. Tuy nhiên, cơ quan nào có thẩm quyền thụ lý đơn khiếu nại hủy bỏ hiệu lực nhãn hiệu đã đăng ký thì pháp luật các nước có quy định khác nhau.

Theo pháp luật Trung Quốc thì đơn yêu cầu hủy hỏ hiệu lực giấy đăng ký nhãn hiệu hàng hóa có thể nộp cho Ban đánh giá và xét xử các vấn đề nhãn hiệu (thuộc Ủy Ban Nhà nước). Quyết định của Ban này là quyết định cuối cùng (Điều 41,44 Luật nhãn hiệu Trung Quốc).

Theo pháp luật Nhật Bản cơ quan có thẩm quyền thụ lý đơn khiếu nại hủy bỏ nhãn hiệu cũng là cơ quan đã cấp đăng ký nhãn hiệu (Cục Sáng chế Nhật Bản). Đơn khiếu nại đó phải được gửi tới Cục trưởng Cục Sáng chế Nhật Bản, sau đó Cục trưởng sẽ chỉ định một hội đồng gồm 3 đến 5 thẩm định viên để tiến hành cân nhắc và xử lý đơn. Hội đồng này sẽ làm việc và ra quyết định độc lập theo chế độ tập thể và chỉ xem xét những vấn đề đưa ra trong nội dung đơn khiếu nại (Điều 43-3, Điều 43-4 Luật nhãn hiệu Nhật Bản).

Riêng Mỹ và Anh cơ quan đăng ký cũng là cơ quan đầu tiên nhận đơn khiếu nại. Song nhãn hiệu cũng có thể bị tuyên bố hủy bỏ bởi một phán quyết của tòa án trong trường hợp khiếu nại hủy bỏ được đưa ra trong nội dung phản tố trong một vụ kiện tranh chấp liên quan đến nhãn hiệu đó. Trong quá trình thụ lý đơn khiếu nại đòi hủy bỏ hiệu lực một nhãn hiệu, cơ quan đăng ký cũng sẽ đóng vai trò vừa là cơ quan xét xử vừa là cơ quan trung gian hòa giải. Cơ quan này sẽ mời bên khiếu nại và bên bị khiếu nại đến để trao đổi đưa ra ý kiến của mình và trách nhiệm của bên khiếu nại phải đưa ra được các bằng chứng chứng minh nhãn hiệu phản đối bị vô hiệu. Khi thấy cần thiết cơ quan cấp đăng ký sẽ đứng ra hòa giải để hai bên thống nhất với nhau về việc sử dụng nhãn hiệu mà không cần thiết phải hủy bỏ nhãn hiệu đó.‌‌

4. Nội dung cơ bản về quyền SHCN đối với nhãn hiệu.

Quyền sở hữu nhãn hiệu là một loại tài sản trí tuệ thuộc tài sản phi vật chất. Do đó, quyền năng chiếm hữu không mang ý nghĩa thực tiễn, không có ý nghĩa quyết định xác định quyền sở hữu. Tài sản nhãn hiệu được coi thuộc về người có quyền sở hữu nhờ sự tôn trọng các chuẩn mực xử sự trong cộng đồng người có tổ chức, các chuẩn mực mà pháp luật áp đặt cho người thứ ba. Trong trường hợp quyền sở hữu đối với nhãn hiệu bị xâm hại thì chủ sở hữu không thể kiện đòi lại tài sản mà chỉ có thể khởi kiện, khiếu nại trước cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để bảo vệ các lợi ích của mình.

Theo quy định của WIPO chủ sở hữu nhãn hiệu có hai quyền cơ bản là quyền sử dụng và quyền không cho người khác được sử dụng nhãn hiệu đó. Do đó, pháp luật Mỹ, Anh, Trung Quốc và Nhật Bản mặc dù có quy định về những quyền cụ thể khác nhau như về cơ bản vẫn thuộc hai quyền này.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 155 trang tài liệu này.

4.1 Quyền sử dụng nhãn hiệu.

Quyền sử dụng nhãn hiệu theo nghĩa rộng là quyền của chủ nhãn hiệu đã đăng ký được dùng nhãn hiệu của mình theo một cách thức mà mình muốn để có lợi cho mình. Pháp luật các nước Mỹ, Anh, Nhật Bản và Trung Quốc quy định khá giống nhau về quyền này và được phân thành hai nhóm.

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo luật nước ngoài - 13

Nhóm thứ nhất: nhóm các quyền liên quan trực tiếp đến nhãn hiệu đối với việc thực hiện các hành vi như gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hóa, bao bì hàng hóa, nhãn mác hàng hóa và dịch vụ của mình. Đồng thời nhóm này cũng bao gồm các quyền của chủ nhãn hiệu được sử dụng nhãn hiệu của mình trong quảng cáo, các giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh... Đây là những quyền liên quan trực tiếp đến nhãn hiệu, phổ biến nhất và được thực hiện thường xuyên bởi chủ nhãn hiệu. Thông qua quyền này chủ sở hữu nhãn hiệu có quyền khai thác các tính năng, công dụng của nhãn hiệu để thu được những lợi ích vật chất cao nhất.

Nhóm thứ hai: nhóm quyền liên quan đến các hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Chủ sở hữu nhãn hiệu có quyền đưa sản phẩm có gắn nhãn mác đó ra thị trường. Hành vi đưa sản phẩm có gắn nhãn mác ra thị trường bao gồm cả quyền sản xuất và đưa hàng hóa có mang nhãn hiệu ra thị trường nội địa hoặc quyền nhập khẩu hàng hóa có mang nhãn hiệu vào thị trường hoặc xuất khẩu hàng hóa có gắn nhãn hiệu ra thị trường nước ngoài. Đây là nhóm quyền có thực tiễn thực hiện đa dạng và phức tạp nhất trong nhóm này, do không chỉ có chủ sở hữu nhãn hiệu thực hiện quyền này mà còn có rất nhiều người khác được chủ nhãn hiệu cho phép (licensee) cũng cùng thực hiện quyền này.

Các nước có nền kinh tế phát triển như Anh, Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc giới hạn quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu được chi phối đến đâu trong quá trình lưu thông sản phẩm được xác định rất rõ. Khi người chủ nhãn hiệu đưa hàng hóa dưới nhãn hiệu đã đăng ký ra thị trường thì họ sẽ không có quyền ngăn cản hay can thiệp vào quá trình lưu thông hàng hóa trong thương mại.

4.2 Quyền cấm người khác sử dụng nhãn hiệu của mình

Quyền cấm người khác sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu nhãn hiệu được pháp luật thừa nhận nhằm bảo hộ quyền sở hữu của chủ nhãn hiệu đồng thời bảo vệ người tiêu dùng và xã hội nói chung, giúp người tiêu dùng không bị nhầm lẫn khi lựa chọn sản phẩm mà mình mong đợi.

Theo đó chủ sở hữu nhãn hiệu có quyền phản đối bất kỳ cá nhân, tổ chức nào sử dụng nhãn hiệu của mình đã được bảo hộ. Cấm tổ chức, cá nhân khác gắn các

nhãn hiệu tương tự tới mức gây nhầm lẫn lên các sản phẩm, dịch vụ cùng loại với sản phẩm, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc ngăn cản việc cá nhân, tổ chức sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự cho các hàng hóa, dịch vụ mà các hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự với hàng hóa, dịch vụ đã đăng ký của chủ sở hữu nhãn hiệu.

Pháp luật Anh quy định trực tiếp về vấn đề này, theo đó chủ nhãn hiệu có quyền ngăn cấm bất kỳ ai sử dụng nhãn hiệu đã đăng ký trong lãnh thổ nước Anh mà không được sự đồng ý của chủ nhãn hiệu (Điều 60.4 Luật nhãn hiệu Anh).

Trong khi đó Pháp luật Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản lại không quy định một cách cụ thể thành văn nội dung của quyền này mà chỉ quy định nội dung các quyền độc quyền sử dụng của chủ nhãn hiệu đối với hàng hóa đã đăng ký sau đó quy định tất cả các hành vi vi phạm sự độc quyền này sẽ bị coi là vi phạm và bị xử lý ở mức độ khác nhau. Pháp luật Nhật Bản thậm chí còn quy định bất kỳ người nào vi phạm các quyền nhãn hiệu sẽ phải chịu chế tài hình sự (Chương 7 Luật nhãn hiệu Trung Quốc, Điều 36 Luật nhãn hiệu Nhật Bản).

5. Thực thi quyền đối với nhãn hiệu

Khái niệm thực thi quyền có thể được hiểu trong một phạm vi rất rộng. Đó là việc áp dụng các quy định pháp luật vào thực tiễn, trong đó bao gồm hoạt động xác lập quyền, hoạt động giải quyết tranh chấp, ngăn ngừa các hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu và cả hoạt động nhằm điều chỉnh những quan hệ liên quan đến việc làm thoả mãn lợi ích của người thứ ba cũng như toàn xã hội đối với việc sử dụng nhãn hiệu.

Tuy nhiên, ở đây thực thi quyền sở hữu nhãn hiệu được tiếp cận ở một góc độ hẹp hơn. Việc thực thi quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu có nghĩa là thực hiện các biện pháp theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ các quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu và ngăn chặn, xử lý người khác sử dụng, khai thác trái phép nhãn hiệu được bảo hộ.

5.1 Xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu

Cùng với sự tăng lên nhanh chóng của các nhãn hiệu được đăng ký và sử dụng trên thị trường, số lượng các vụ việc vi phạm quyền đối với nhãn hiệu cũng

ngày càng gia tăng. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý các hành vi vi phạm, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu nhãn hiệu, bảo vệ người tiêu dùng và trật tự xã hội nói chung, pháp luật Mỹ, Anh, Trung Quốc và Nhật Bản có những quy định nhằm bảo vệ quyền SHTT nói chung, nhãn hiệu nói riêng bằng việc quy định các hành vi xâm phạm cũng như các biện pháp, cách thức xử lý các hành vi vi phạm đó.

Theo quy định của pháp luật Mỹ, bất kỳ chủ thể nào không được phép của người được cấp đăng ký nhãn hiệu thực hiện một trong các hành vi sau sẽ bị coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu:

Sử dụng trong thương mại bất kỳ việc sao chép, giả mạo, sao chép hay nhái nhãn hiệu được đăng ký trong việc bán, chào bán, phân phối hay quảng cáo bất cứ hàng hóa, dịch vụ nào mà có khả năng gây nhầm lẫn, gây hiểu lầm hoặc lừa đảo;

Hoặc sao chép, giả mạo, sao chép hoặc nhái nhãn hiệu được đăng ký và sử dụng việc sao chép, giả mạo, bắt chước hoặc mô phỏng này cho nhãn sản phẩm, dấu hiệu, ấn phẩm, bao bì, giấy gói, đồ đựng hoặc cho quảng cáo với mục đích thương mại, bán, chào bán, phân phối hay quảng cáo bất cứ hàng hóa, dịch vụ nào mà có khả năng gây nhầm lẫn, gây hiểu lầm hoặc lừa đảo (Điều 32.1Luật nhãn hiệu Mỹ).

Làm lu mờ nhãn hiệu nổi tiếng: theo quy định của luật liên bang về sự lu mờ của nhãn hiệu năm 1995 (Federal Trademark Dilution Act), hành vi làm lu mờ nhãn hiệu nổi tiếng được hiểu là sự làm giảm công năng của một nhãn hiệu nổi tiếng để xác định và phân biệt hàng hóa, bất kể là có hay không có sự cạnh tranh giữa các bên hay khả năng gây nhầm lẫn.

Vi phạm trên mạng Internet: năm 1999, quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua Luật bảo hộ người tiêu dùng chống chiếm dụng tên miền. Luật này cho phép các chủ sở hữu các nhãn hiệu có tính phân biệt hoặc nhãn hiệu nổi tiếng kiện ra toà án liên bang khi một tên miền tương tự tới mức gây nhầm lẫn được đăng ký với ý đồ không trung thực để hưởng lợi bất hợp pháp. Các chế tài bao gồm cả bồi thường thiệt hại bằng tiền.

Các hành vi vi phạm khác: ngoài các loại vi phạm kể trên, các hành vi sau đây cũng bị coi là hành vi vi phạm như che dấu sự lừa dối về nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa/dịch vụ; quảng cáo giả mạo gây nhầm lẫn, miêu tả sai lệch trên Internet…

Pháp luật Nhật Bản cũng quy định cụ thể về các hành vi vi phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu. Theo Điều 37 Luật nhãn hiệu Nhật Bản thì những hành vi sau đây được coi là hành vi vi phạm nếu không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu:

Sử dụng nhãn hiệu đã đăng ký hoặc nhãn hiệu tương tự với nhãn hiệu đã đăng ký cho các sản phẩm, dịch vụ cùng loại với sản phẩm, dịch vụ mang nhãn hiệu đã đăng ký;

Lưu thông, chào bán, tàng trữ, nhập khẩu, phân phối, chuyển nhượng hàng hóa/dịch vụ mang nhãn hiệu tương tự với nhãn hiệu đã đăng ký cho hàng hóa/ dịch vụ cùng loại;

Gắn nhãn hiệu đã được đăng ký hoặc nhãn hiệu tương tự với nhãn hiệu đã được đăng ký lên bao bì hàng hóa cùng loại;

Sản xuất hoặc nhập khẩu hàng hóa/dịch vụ mang nhãn hiệu tương tự với nhãn hiệu đã đăng ký cho hàng hóa/dịch vụ cùng loại;

Sản xuất, chuyển nhượng, phân phối, nhập khẩu, kinh doanh hàng hóa/dịch vụ mang nhãn hiệu được sử dụng độc quyền, tương tự với với nhãn hiệu đã đăng ký cho hàng hóa/dịch vụ cùng loại.

Ví dụ, trường hợp xâm phạm nhãn hiệu “Louis Vuitton” nổi tiếng ở Nhật Bản:

từ năm 1983 đến 1985 Mitsukuni INOUE (X) bán “túi” cho bên thứ ba có gắn chữ “LV” ở phía trên sản phẩm giống với nhãn hiệu “LV” (theo số đăng ký 1332979) và nhãn hiệu “LV hình ngôi sao, bông hoa” (theo số đăng ký 1446773) cho túi của Louis Vuitton SA (Y). X đã khởi kiện Y tại Tòa án và bên Y cũng đã đưa ra những lập luận và chứng cứ cho rằng X xâm phạm nhãn hiệu được bảo hộ và gây thiệt hại cho Y. Trong phiên xét xử tại Tòa án quận Osaka, do hiểu sai về pháp luật nên X cho rằng việc sử dụng nhãn hiệu coi như là kiểu dáng chứ đó không phải là nhãn

hiệu. Tuy nhiên, tòa án cho rằng nhãn hiệu và kiểu dáng không tồn tại riêng biệt mà chúng có mối liên hệ với nhau, việc sử dụng nhãn hiệu “LV”, “LV hình ngôi sao, bông hoa” của X đã xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu của Y, Tòa án đã bác bỏ lập luận của X. Do đó, Tòa án đã bác đơn khởi kiện của X.

Giống với pháp luật Mỹ và Nhật Bản, pháp luật Anh cũng quy định khá chi tiết về các hành vi vi phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu. Theo Điều 10 Luật nhãn hiệu Anh thì các hành vi sau sẽ bị coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu nếu không được sự cho phép của chủ nhãn hiệu:

Sử dụng trong thương mại nhãn hiệu tương tự với nhãn hiệu đã đăng ký cho các sản phẩm, dịch vụ cùng loại với sản phẩm, dịch vụ mang nhãn hiệu đã đăng ký;

Gắn nhãn hiệu đã được đăng ký hoặc nhãn hiệu tương tự với nhãn hiệu đã được đăng ký lên bao bì hàng hóa cùng loại;

Chào bán hoặc trưng bày các sản phẩm trên thị trường, chào bán hoặc cung cấp các dịch vụ mang nhãn hiệu đã được đăng ký;

Nhập khẩu hoặc xuất khẩu các sản phẩm mang nhãn hiệu đã được đăng ký;

Sử dụng nhãn hiệu đã đăng ký lên các giấy tờ giao dịch hoặc quảng cáo.

Ví dụ, Công ty TNHH chế biến Thực phẩm ở Việt Nam đã nộp đơn đăng ký nhãn hiệu “GOLIUS” của mình tại Anh theo hình thức đăng ký trực tiếp. Tuy nhiên, nhãn hiệu này đã bị một Công ty khác ở Anh phản đối cấp văn bằng với lý do “Nhãn hiệu này tương tự với nhãn hiệu của Công ty Anh”. Sau khi tìm hiểu thì được biết, Công ty ở Anh đã đăng ký bảo hộ cho nhãn hiệu “GOLIUS và lô gô hình con cá” cho các sản phẩm “thực phẩm đông lạnh” từ trước đó. Để vượt qua từ chối này, công ty TNHH chế biến thực phẩm phải tiến hành một trong các cách sau:

- Liên hệ với công ty Anh để xin Thư chấp thuận cho phép sử dụng và đăng ký nhãn hiệu đó tại Anh.

- Loại bỏ phần chữ “GOLIUS” trong nhãn hiệu của mình.

Cân nhắc các biện pháp, công ty thực phẩm đã thông qua một Văn phòng luật sư liên hệ và đàm phàn với chủ sở hữu nhãn hiệu ở Anh để xin Thư chấp nhận. Công ty này đã phải trả cho công ty Anh một khoản tiền tương đối lớn để có được

Thư chấp thuận nêu trên. Với Thư chấp thuận, Cục SHTT Anh đã chấp nhận bảo hộ cho nhãn hiệu của Công ty TNHH chế biến thực phẩm của Việt Nam.

Theo pháp luật Trung Quốc quy định bất kỳ hành vi nào trong số các hành vi sau sẽ bị coi là hành vi vi phạm nhãn hiệu đã được đăng ký (Điều 52 Luật nhãn hiệu Trung Quốc và Điều 50 Quy định thực thi Luật nhãn hiệu Trung Quốc 2002):

Sử dụng nhãn hiệu trùng lặp hoặc tương tự với nhãn hiệu đã được đăng ký cho hàng hóa cùng loại hoặc tương tự mà không được sự đồng ý của chủ đăng kỹ nhãn hiệu đó;

Cố ý bán hàng mang nhãn hiệu nhái theo nhãn hiệu đã đăng ký;

Kinh doanh hàng hóa mà đã biết hoặc buộc phải biết là hàng vi phạm quyền của chủ đăng ký nhãn hiệu;

Sử dụng bất kỳ từ ngữ hoặc hình ảnh giống hoặc tương tự với nhãn hiệu đã đăng ký cho hàng hóa cùng loại hoặc tương tự làm tên gọi hoặc để trang trí hàng hóa gây nhầm lẫn cho công chúng;

Cố ý cung cấp phương tiện cho người vi phạm quyền đối với nhãn hiệu để tàng trữ, vận chuyển, bưu phẩm và che đậy quá trình vi phạm quyền của chủ đăng ký.

Ví dụ, trường hợp vi phạm nhãn hiệu “G2000” với mức tiền bồi thường cao nhất trong số các vụ vi phạm nhãn hiệu ở Trung Quốc những năm gần đây. Ông Zhao Hua (Bên A) là chủ nhãn hiệu “2000”, được đăng ký vào năm 1997 cho các sản phẩm thuộc Nhóm 25 gồm miếng lót trong giầy, găng tay, khăn quàng cổ, cà vạt, thắt lưng, khăn quàng vai và mạng che mặt. G2000 (Bên B), một Công ty Hồng Kông chuyên kinh doanh quần áo và các phụ kiện cho nam giới và phụ nữ. Bên B đã đăng ký nhãn hiệu “G2000” cho các sản phẩm quần áo, giầy dép, mũ nón năm 1992, đến năm 1997 đăng ký tiếp “G2000” cho sản phẩm túi sách, túi mua sắm và dây đeo. Năm 2002 Bên B đăng ký nhãn hiệu “G2” cho sản phẩm quần áo, ca vát, miếng lót trong giầy, khăn quàng cổ, và thắt lưng. Tháng 05/2000 Bên B đã gửi đơn yêu cầu hủy bỏ nhãn hiệu “2000” lên Ban đánh giá và xét xử các vấn đề nhãn hiệu nhưng không được chấp nhận. Sau đó Bên B đã khiếu nại lên Tòa an Nhân dân

Xem tất cả 155 trang.

Ngày đăng: 22/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí