Phân Biệt Quyền Đòi Nợ Với Một Số Quyền Tài Sản Khác

quyền đòi nợ với các loại quyền tài sản khác. Mặc dù, BLDS năm 2005 không hề có điều khoản nào quy định về khái niệm cũng như các đặc điểm của quyền đòi nợ để phân biệt với các loại tài sản khác. Tuy nhiên, từ việc phân tích tại Mục 1 phần này, có thể thấy rằng quyền đòi nợ có hai đặc điểm, thuộc tính cơ bản là: (1) Trị giá được bằng tiền; (2) Có thể chuyển giao quyền sở hữu cho chủ thể khác trong giao dịch dân sự.

Thứ nhất, quyền đòi nợ trị giá được bằng tiền.

Một trong những đặc điểm nổi bật của quyền tài sản nói chung cũng như quyền đòi nợ nói riêng đó là có thể trị giá được bằng tiền, nghĩa là phải tương đương với một đại lượng vật chất nhất định. Thật vậy, qua khái niệm về quyền đòi nợ như đã phân tích ở trên có thể thấy rằng vì bản thân quyền đòi nợ là xác nhận quyền yêu cầu trả nợ, quyền yêu cầu thanh toán một khoản tiền trong một thời hạn nhất định và khoản tiền đó đã được xác định rõ trên văn bản phát sinh ra nó. Hiện nay, pháp luật dân sự Việt Nam công nhận một số quyền tài sản là tài sản như: quyền sử dụng đất, quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tài sản bị xâm phạm, quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng [24, Điều 322]. Trong đó, nhận tài sản bảo đảm là các quyền tài sản này đều phải tuân thủ quy định pháp luật dân sự và các quy định của pháp luật chuyên ngành, ví dụ nhận tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất hay quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên thì ngoài việc phải tuân thủ các quy định chung của pháp luật dân sự còn phải tuân thủ các quy định của luật đất đai, luật khoáng sản…

Quyền đòi nợ luôn phát sinh từ hợp đồng, có thể là hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng thi công, xây dựng, hợp đồng dịch vụ…các hợp đồng này tuy khác nhau về nội dung nhưng có một điểm chung đó đều là hợp đồng song vụ. Có nghĩa, quyền của bên này tương ứng là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Vì vậy, nghĩa vụ trong hợp đồng được xác định cụ thể. Có thể nhận

thấy dù phát sinh từ hợp đồng nào thì quyền đòi nợ luôn được xác định cụ thể: bên có nghĩa vụ trả nợ, bên có quyền và số tiền bên có nghĩa vụ phải trả cho bên có quyền. Trong mối quan hệ giữa người có quyền đòi nợ với người có nghĩa vụ trả nợ, khi đến hạn thanh toán đã được xác định trong hợp đồng, người có quyền đòi nợ có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ trả nợ phải thanh toán số tiền nợ đã ghi trên hợp đồng. Như vậy, đến ngày thực hiện nghĩa vụ thanh toán, quyền đòi nợ đã được quy ra một khoản tiền và người có nghĩa vụ trả nợ có nghĩa vụ trả cho người sở hữu số tiền đó.

Trong giao dịch bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ, mức cho vay được xác định dựa trên giá trị của khoản nợ và sự xem xét, đánh giá của các TCTD. Mức cho vay thường không vượt quá giá trị của khoản nợ.

Thứ hai, người có quyền đòi nợ có thể chuyển giao quyền đòi nợ ấy cho chủ thể khác trong giao dịch dân sự.

Đặc điểm đặc trưng khác của quyền đòi nợ đó là quyền đòi nợ có thể được chuyển nhượng, tức là người có quyền đòi nợ có thể chuyển giao quyền yêu cầu thanh toán (quyền được nhận khoản nợ) cho chủ thể khác trong giao dịch dân sự. Pháp luật hiện hành xem quyền đòi nợ là một loại tài sản, vì vậy, chủ thể của quyền đòi nợ được quyền chuyển nhượng quyền đòi nợ cho chủ thể khác theo cách thức và thông qua các hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật như mua, bán, cho, tặng, trao đổi, thừa kế,...

Việc chuyển nhượng quyền đòi nợ có liên hệ chặt chẽ với việc chuyển giao quyền yêu cầu được quy định tại các Điều từ 309 đến Điều 314 của BLDS năm 2005. Theo đó, chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự là việc bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người thế quyền theo thỏa thuận. Pháp luật hạn chế một số trường hợp bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự không được chuyển giao quyền đó cho người khác [24, Điểm a, b, c khoản 1, Điều 309]. Điểm a, khoản 1 Điều 309 BLDS năm 2005 quy định những trường hợp

quyền yêu cầu là những quyền gắn liền với nhân thân của chủ thể có quyền thì không được chuyển giao. Ví dụ như: quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín. Vì quyền đòi nợ đã loại trừ các quyền liên quan đến nhân thân như trên, do đó, trừ khi các bên có thỏa thuận khác, quyền đòi nợ được chuyển giao. Đặc trưng cơ bản của luật dân sự là tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, vì vậy tại Điểm b, khoản 1, Điều 309 BLDS năm 2005 quy định một trong những trường hợp bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự không được chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người khác nếu giữa Bên có quyền và bên có nghĩa vụ có thoả thuận không được chuyển giao quyền yêu cầu. Bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự không được chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người khác trong trường hợp mà pháp luật quy định. Như vậy, việc chuyển giao quyền yêu cầu của bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự cho một chủ thể thế quyền khác chỉ bị hạn chế bởi 3 điều kiện như đã liệt kê trên.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Như vậy, quyền đòi nợ bản thân nó là một loại tài sản có đủ hai đặc điểm đặc trưng cơ bản của quyền tài sản là trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao quyền sở hữu cho chủ thể khác trong giao dịch dân sự. Đây là hai đặc điểm để nhận biết quyền đòi nợ.

1.1.3. Phân biệt quyền đòi nợ với một số quyền tài sản khác

Bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại các tổ chức tín dụng theo pháp luật Việt Nam - 3

Điều 322 BLDS năm 2005 quy định các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm bao gồm quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng và các quyền tài sản khác thuộc sở hữu của bên bảo đảm đều được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.

1.1.3.1. Phân biệt quyền đòi nợ với quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng

Pháp luật hiện hành không quy định cụ thể các loại quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng nào khác có thể trở thành tài sản bảo đảm ngoài quyền đòi

nợ và quyền được nhận số tiền bảo hiểm. Trong khuôn khổ pháp luật giao dịch bảo đảm, Ðiều 322 của BLDS năm 2005 phân biệt quyền đòi nợ với quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng theo hướng đây là hai loại quyền tài sản độc lập với nhau. BLDS năm 2005 công nhận một khái niệm pháp lý khác là quyền yêu cầu [24, Ðiều 309 đến Ðiều 314]. Khoản 4 và 5, Ðiều 22, Nghị định số 163 coi quyền đòi nợ là một loại quyền yêu cầu. Trước đây, quyền đòi nợ được định nghĩa theo hướng liệt kê gồm quyền đòi nợ phát sinh từ hợp đồng vay, hợp đồng mua bán, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng dịch vụ hoặc phát sinh từ các căn cứ hợp pháp khác [1, điểm d khoản 1.1]. Song, Ðiều 2, khoản 2, điểm 2.4 Thông tư 05/2011/TT-BTP quy định “Hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ bao gồm quyền đòi nợ hiện có hoặc quyền đòi nợ hình thành trong tương lai”. Dường như các nhà làm luật muốn mở rộng hơn căn cứ phát sinh quyền đòi nợ khi không giới hạn ở các hợp đồng nhất định nữa. Tuy nhiên, không có quy định nào của BLDS năm 2005 giải thích nội hàm của các quyền phát sinh từ hợp đồng. Có thể hiểu quyền đòi nợ là một quyền yêu cầu mang tính chắc chắn có thể được thực thi trong khi quyền phát sinh từ hợp đồng là quyền yêu cầu ít chắc chắn hơn, có tính chất ngẫu nhiên hơn, tức là phụ thuộc vào các tình huống nhất định để chuyển một quyền tiềm năng thành một quyền có thể thực thi được. Quyền phát sinh từ hợp đồng bao gồm rất nhiều loại quyền, chẳng hạn như quyền chọn, quyền phát sinh từ một hợp đồng cho thuê tàu biển, quyền phát sinh từ vận đơn, quyền phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, quyền phát sinh từ hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp hay quyền thuê phát sinh từ hợp đồng thuê: Quyền đòi nợ và quyền phát sinh từ hợp đồng là hai loại quyền yêu cầu tiêu biểu.

1.1.3.2. Phân biệt quyền đòi nợ với quyền sở hữu trí tuệ

Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở

hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Khác với quyền tài sản hữu hình có đối tượng là các vật, quyền sở hữu trí tuệ có đối tượng mang tính chất trừu tượng – thành quả của hoạt động tư duy sáng tạo của con người. Các quyền liên quan đến các sản phẩm của trí tuệ vừa mang tính chất nhân thân, vừa mang tính tài sản. Quyền sở hữu trí tuệ là nhóm quyền đặc biệt, không thuộc nhóm vật quyền và cũng không thuộc nhóm trái quyền. Nó không phải trái quyền bởi lẽ chủ sở hữu thực hiện quyền năng sở hữu một cách trực tiếp chứ không phải thông qua người khác. Quyền sở hữu trí tuệ được hiểu là một tập hợp các độc quyền khai thác một ý tưởng, một tác phẩm, một sáng chế...ở điểm này, quyền sở hữu trí tuệ có phần giống như một vật quyền, tuy nhiên, nếu như vật quyền là quyền đối vật là đối tượng tồn tại một các vật chất, hiện hữu thì đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ không phải là một vật mà là kết quả của sáng tạo tư duy, yếu tố không tồn tại một cách vật chất. Trong luật Việt Nam, đối tượng của quyền tác giả bao gồm mọi tác phẩm sáng tạo trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học.

Mặc dù Điều 322 BLDS năm 2005 liệt kê rõ ràng các quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng làm tài sản bảo đảm, Luật sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày 29/11/2005 được sửa đổi năm 2009 không đề cập tới việc thế chấp các quyền sở hữu trí tuệ này. Luật sở hữu trí tuệ chỉ quy định việc chuyển nhượng quyền tác giả, việc định đoạt đối tượng sở hữu công nghiệp thông qua việc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp và việc chuyển giao quyền đối với giống cây trồng. Cũng không có bất cứ quy định nào về việc xác lập và hệ quả pháp lý của giao dịch bảo đảm có đối tượng là quyền sở hữu trí tuệ trong các văn bản hướng dẫn thi hành luật này như Nghị định 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21/09/2006 về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLDS, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan được sửa đổi năm 2011, Nghị định 103/2006/NĐ-CP của Chính phủ

ngày 22/09/2006 về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp được sửa đổi năm 2010 hay Nghị định 88/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/08/2010 quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về quyền đối với giống cây trồng. Hơn nữa, theo quy định tại khoản 6, điều 3, Thông tư số 05/2011/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 16/02/2011 hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên tài sản thi hành án theo phương thức trực tiếp, bưu điện, fax, thư điện tử tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp, việc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp chứ không phải tại Cục sở hữu trí tuệ như thông lệ tại nhiều nước trên thế giới.

1.1.3.3. Phân biệt quyền đòi nợ với quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp

Điều 322 BLDS năm 2005 quy định có thể dùng quyền tài sản đối với phần góp vốn trong doanh nghiệp làm tài sản bảo đảm. Trong thực tế, chính cách quy định như thế lại dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng chế định này bởi tính chất khá trừu tượng của khái niệm quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp. Có thể hiểu quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp gồm các quyền mà thành viên góp vốn có được sau khi thực hiện việc góp vốn vào doanh nghiệp được quy định tại điều 41 của Luật doanh nghiệp (quyền biểu quyết thông qua các quyết định của công ty, quyền được chia lợi nhuận, quyền được ưu tiên góp thêm vốn, v.v…). Tuy nhiên khi nhận thế chấp, ngân hàng sẽ thích nhận phần vốn góp hơn là nhận các quyền của thành viên góp vốn vì pháp luật doanh nghiệp không quy định việc định

đoạt quyền của thành viên góp vốn mà chỉ quy định việc định đoạt phần vốn góp. Điều 140 của Luật doanh nghiệp khi quy định về quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn cho phép thành viên góp vốn của công ty hợp danh được định đoạt phần vốn góp của mình bằng cách thế chấp, cầm cố. Tức là Luật doanh nghiệp cho phép thực hiện giao dịch bảo đảm đối với phần vốn góp. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp không nêu rõ việc thành viên góp vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn có quyền thực hiện giao dịch bảo đảm đối với phần góp vốn của mình hay không [27, điểm h khoản 1 Điều 41] như trong trường hợp công ty hợp danh [27, điểm e khoản 1 Điều 140]. Tuy điểm h khoản 1 điều 41 quy định mở là thành viên góp vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn có thể định đoạt phần vốn góp của mình bằng cách khác theo quy định của pháp luật và điều lệ của công ty, nhưng thật khó có thể hình dung giá trị pháp lý của việc thế chấp phần vốn góp nếu chỉ được quy định trong điều lệ của một công ty. Một điểm đáng chú ý là Luật doanh nghiệp vẫn còn thiếu vắng các quy định về việc chấp thuận giao dịch thế chấp phần vốn góp. Thực vậy, Luật doanh nghiệp chỉ quy định việc chấp thuận thành viên mới của công ty trong trường hợp chuyển nhượng phần vốn góp hay sử dụng phần vốn góp để trả nợ. Với các quy định này, khi chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho người khác, thành viên góp vốn phải chào bán phần vốn đó cho các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện và chỉ được chuyển nhượng cho người khác không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày chào bán. Hơn nữa trong trường hợp thành viên sử dụng phần vốn góp để trả nợ thì người nhận thanh toán chỉ được trở thành thành viên của công ty nếu được các thành viên còn lại chấp thuận, nếu không sẽ bắt buộc phải chào bán phần vốn góp đó. Có thể thấy tinh thần của Luật doanh nghiệp là hạn chế sự xuất hiện của thành viên mới trong công

ty và tôn trọng quyết định chấp thuận hay không chấp thuận thành viên mới của các thành viên còn lại. Khi xây dựng các quy định mới về vấn đề này đối với việc thế chấp phần vốn góp, nhà làm luật nên đi theo hướng tôn trọng nguyên tắc này của Luật doanh nghiệp.

1.1.3.4. Phân biệt quyền đòi nợ với quyền phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

Như trình bày ở phần trên, điều 322 của BLDS năm 2005 quy định quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm là một loại quyền tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Theo điều 346 của BLDS năm 2005, trong trường hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm thì khoản tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản thế chấp. Nếu đọc kết hợp hai điều này của BLDS năm 2005 có thể thấy BLDS năm 2005 chỉ công nhận quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm là một phần của tài sản thế chấp. Quy định như thế rõ ràng là tương đối hẹp và đây chỉ là một ví dụ về việc pháp luật Việt Nam công nhận việc thay thế đối vật – giá trị của tài sản thế chấp ở vị trí của tài sản thế chấp bị phá hủy một phần hay toàn bộ. Hệ thống pháp luật của nhiều nước trên thế giới công nhận rộng rãi giao dịch bảo đảm có đối tượng là hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, hay cụ thể hơn là số tiền bảo hiểm vốn là một quyền đòi nợ của bên mua bảo hiểm hay người được thụ hưởng. Điều 18, Luật kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 ngày 09/12/2000 về kinh doanh bảo hiểm được sửa đổi bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm số 61/2010/QH12 ngày 24/11/2010 khi quy định về quyền của bên mua bảo hiểm cho phép bên mua bảo hiểm được chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm nhưng không đề cập tới việc bên mua bảo hiểm có được sử dụng hợp đồng bảo hiểm làm tài sản bảo đảm hay không. Điều 18 cũng có quy định theo hướng mở là bên mua bảo hiểm được thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật. Tuy vậy,

Xem tất cả 96 trang.

Ngày đăng: 19/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí