Bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại các tổ chức tín dụng theo pháp luật Việt Nam - 2

Nhưng, các bài trao đổi, bài viết trên đây chỉ mới dừng lại ở việc phân tích quyền đòi nợ là một loại tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự. Qua quá trình tra cứu tài liệu cho thấy, hiện chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về biện pháp bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu để tìm hiểu một cách đầy đủ, toàn diện về lý luận và thực tiễn áp dụng bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD ở Việt Nam hiện nay.

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn

Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD, từ đó thấy được những kết quả cũng như những vấn đề còn tồn tại, nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.

Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:

- Làm rõ những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD như: khái niệm, đặc điểm quyền đòi nợ với tư cách là một tài sản bảo đảm; khái niệm, đặc điểm, vai trò của bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ; nội dung pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ.

- Nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD ở Việt Nam qua việc đưa ra những nhận định khái quát và cụ thể những mặt được, những mặt hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành và thực tế áp dụng bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD ở Việt Nam.

- Đưa ra định hướng và những kiến nghị, đề xuất, giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD ở Việt Nam.

4. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật hiện hành điều chỉnh về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD ở Việt Nam đặt trong mối quan hệ với pháp luật về quyền tài sản và các văn bản pháp lý chuyên ngành tài chính ngân hàng điều chỉnh hoạt động cho vay của TCTD. Từ đó, làm nổi bật các đặc trưng của bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD so với các biện pháp bảo đảm dân sự khác và so với các biện pháp bảo đảm tiền vay khác. Đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này, để phát hiện các tồn tại, bất cập và kiến nghị phương hướng khắc phục, hoàn thiện.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Với mục đích triển khai những nội dung cơ bản của luận văn, tác giả đã vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, giải thích, so sánh … để lý giải những vấn đề đặt ra.

6. Những đóng góp mới của đề tài

Bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại các tổ chức tín dụng theo pháp luật Việt Nam - 2

Là công trình nghiên cứu pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật một cách cụ thể, luận văn có những đóng góp mới là:

- Trình bày, phân tích một cách khoa học và có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD.

- Nêu và phân tích nguyên nhân, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi tại TCTD ở Việt Nam;

- Luận văn kiến nghị, đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD ở Việt Nam nhằm góp phần xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, mang tính khả thi.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục các chữ viết tắt và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng.

Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam.

Chương 3: Một số phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG QUYỀN ĐÒI NỢ TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG

1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền đòi nợ, phân biệt quyền đòi nợ với một số quyền tài sản khác

1.1.1 Khái niệm quyền đòi nợ

Quyền dân sự là khả năng pháp luật cho phép chủ thể hưởng một lợi ích vật chất, tinh thần hoặc yêu cầu người khác thực hiện một nghĩa vụ cho mình. Nghĩa vụ của bên kia có thể phải làm một công việc hoặc không được thực hiện một công việc hoặc phải chuyển tài sản…

Quyền đòi nợ là một loại tài sản theo quy định của BLDS năm 2005. Đây là một tài sản vô hình mà chúng ta không thể nắm giữ trực tiếp. Quyền đòi nợ có tính chất khá đặc biệt vì nó phản ánh việc một nghĩa vụ vừa là một mối quan hệ về mặt pháp luật, đồng thời lại là một loại tài sản.

Dưới góc độ của pháp luật về tài sản, quyền đòi nợ là một loại quyền tài sản [24, khoản 1 Ðiều 322] và quyền tài sản lại là một trong bốn loại tài sản theo quy định hiện hành [24, Ðiều 163]. Như vậy, có thể hiểu quyền đòi nợ tự thân nó là một tài sản. Ðối tượng của quyền đòi nợ chính là khoản tiền sẽ được thanh toán vào một thời điểm nhất định. Quyền đòi nợ là một tài sản đặc biệt. Tài sản đó ở dạng vô hình hay nó là một dạng của quyền tài sản. Quyền tài sản có rất nhiều nhưng chỉ những quyền tài sản đáp ứng một số điều kiện nhất định quy định tại Điều 163 BLDS năm 2005 mới trở thành đối tượng trong các giao dịch dân sự.

Dưới góc độ kế toán, quyền đòi nợ là một “khoản phải thu”. Khoản phải thu là bộ phận tài sản của doanh nghiệp đang bị các đơn vị hoặc cá nhân khác chiếm dụng mà doanh nghiệp có trách nhiệm thu hồi. Khoản phải thu có liên quan đến các đối tác có quan hệ kinh tế đối với doanh nghiệp bao gồm

các khoản: khoản phải thu từ khách hàng, khoản ứng trước cho người bán, khoản phải thu nội bộ, khoản tạm ứng cho công nhân viên, các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ, các khoản phải thu khác. Có thể nói nôm na “khoản phải thu” là số tiền khách hàng nợ doanh nghiệp do mua chịu hàng hóa hoặc dịch vụ. Trong lĩnh vực kế toán, có thể nói hầu hết các công ty đều phát sinh các khoản phải thu nhưng với mức độ khác nhau, từ mức không đáng kể cho đến mức không thể kiểm soát nổi. Kiểm soát khoản phải thu liên quan đến việc đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro. Khoản phải thu của doanh nghiệp phát sinh nhiều hay ít phụ thuộc vào các yếu tố như tình hình nền kinh tế, giá cả sản phẩm, chất lượng sản phẩm, và chính sách bán chịu của doanh nghiệp.

Đứng ở góc độ của pháp luật nghĩa vụ thì quyền đòi nợ là một dạng của quyền yêu cầu quy định tại các điều từ Điều 309 đến Điều 314 của BLDS năm 2005. Đó là quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện một công việc, cụ thể là phải thanh toán một khoản tiền cho bên có quyền tại một thời điểm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng. Thời điểm thỏa thuận này có thể là một thời điểm nhất định trong tương lai, nhưng quyền đòi nợ có thể được thanh toán khi bên có quyền yêu cầu hay khi phát sinh một sự kiện tương lai nhất định mà các bên đã thỏa thuận. Bên có quyền chỉ có thể yêu cầu việc thanh toán này từ phía bên có nghĩa vụ chứ không thể yêu cầu một bên thứ ba làm việc này bởi quyền đòi nợ chỉ thiết lập các mối quan hệ giữa bên có quyền và bên có nghĩa vụ mà thôi. Ðiều này minh họa cho tính chất tương đối của quyền đòi nợ.

Trong khoa học pháp lý người ta chia quyền tài sản ra ba loại: quyền đối vật hay còn gọi là vật quyền; quyền đối nhân hay còn gọi là trái quyền; quyền sở hữu trí tuệ. Quyền đối vật là quyền cho phép một người được hưởng các quyền năng trực tiếp và ngay lập tức đối với một vật mà không cần vai trò của một người khác. Quyền đối vật chỉ bao gồm hai yếu tố: chủ thể của quyền và vật, đối tượng của quyền. Hay quyền đối vật là quyền trực tiếp trên vật. Còn quyền đối nhân là quyền yêu cầu người có nghĩa vụ phải làm hoặc không

làm một việc nào đó. Thông thường, quyền đối nhân phát sinh từ quan hệ hợp đồng nhưng cũng có thể phát sinh do các căn cứ khác do pháp luật quy định. Điều 181 BLDS năm 2005 quy định: “quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự”. Như vậy, theo luật Việt Nam, nếu quan hệ trái quyền có thể tính được thành tiền và chuyển giao được thì trái quyền đó mới là quyền tài sản. Vật quyền và trái quyền có những sự khác biệt cơ bản sau: thứ nhất, vật quyền mang tính chất tuyệt đối theo nghĩa tất cả những người khác trong xã hội có nghĩa vụ phải tôn trọng các quyền năng của người được hưởng vật quyền, và người này được thực hiện các quyền trực tiếp đối với tài sản. Trái lại, trong quan hệ trái quyền mang tính chất tương đối, nó chỉ mối quan hệ giữa người có quyền và người có nghĩa vụ và về mặt nguyên tắc, nó chỉ có hiệu lực tương đối giữa hai người này mà thôi. Thứ hai, trong quan hệ vật quyền, người có quyền có thể trực tiếp khai thác tài sản và có quyền đòi lại tài sản dù tài sản đang nằm trong tay ai. Trái lại, trong quan hệ trái quyền, người có quyền chỉ có thể yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ chứ không có quyền cụ thể đối với tài sản này hay tài sản kia của người có nghĩa vụ. Theo quan niệm này thì quyền tài sản tương ứng với trái quyền và quyền đòi nợ là một trái quyền.

Xét về mặt ngôn ngữ, bản thân thuật ngữ quyền đòi nợ tự nó "toát lên" những đặc điểm riêng biệt để nhận biết, trước tiên nó là một quyền, và quyền này là quyền được yêu cầu người khác phải thực hiện một nghĩa vụ tài chính đối với mình. Quyền ở đây chính là một quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Nói một các nôm na thì quyền đòi nợ là một quyền có giá trị tiền tệ nhưng không có đối tượng là một vật hữu hình nào: người có quyền đòi nợ thực hiện quyền của mình bằng cách yêu cầu người mắc nợ thực hiện nghĩa vụ trả nợ và tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ đó dưới hình thức nhận một số tiền.

Pháp luật thực định không đưa ra một định nghĩa cụ thể về quyền đòi nợ. Trước đây, Thông tư số 04/2007/TT-BTP ngày 17/5/2007 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về thẩm quyền, trình tự và thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin về hợp đồng mua trả chậm, trả dần, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng cho thuê tài chính và hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ đã định nghĩa quyền đòi nợ theo hướng liệt kê gồm quyền đòi nợ phát sinh từ hợp đồng vay, hợp đồng mua bán, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng dịch vụ hoặc phát sinh từ các căn cứ hợp pháp khác. Song, danh sách này đã bị hủy bỏ bởi Thông tư số 05/2011/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 16/02/2011 hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên tài sản thi hành án theo phương thức trực tiếp, bưu điện, fax, thư điện tử tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp, nên hiện nay chưa có văn bản nào quy định rõ quyền đòi nợ là gì. Vì pháp luật thực định chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể về quyền đòi nợ, chưa quy định cụ thể các tiêu chí, đặc điểm để nhận biết về quyền đòi nợ, nên các TCTD gặp nhiều khó khăn trong việc xác định quyền đòi nợ để nhận thế chấp. Liệu có phải bất kỳ quyền đòi một khoản tiền phát sinh từ bất kỳ loại hợp đồng nào cũng được coi là quyền đòi nợ và đều được nhận làm tài sản thế chấp, trong khi pháp luật thực định đặt ra cho Bên nhận thế chấp nghĩa vụ chứng minh quyền được đòi nợ đối với bên có nghĩa vụ trả nợ.

Nghị định số 163 là văn bản có các quy định riêng cho việc thế chấp quyền đòi nợ (chủ yếu là Điều 22, Điều 59 và Điều 66). Nghị định số 163 đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 11. Nghị định số 11 có hiệu lực kể từ ngày 10/4/2012. Tuy vậy, các quy định tại Nghị định số 163 chưa đề cập hết các khía cạnh của loại hình giao dịch bảo đảm có đối tượng là quyền đòi nợ này và phải áp dụng các quy định chung của BLDS và Nghị định số 163 về giao dịch bảo đảm nói chung và về thế chấp tài sản đối với các vấn đề không được xử lý một cách riêng biệt bởi các quy định này.

Các văn bản luật hiện không đưa ra khái niệm thế nào là “quyền đòi nợ”. Tuy nhiên, theo những phân tích ở trên, có thể rút ra khái niệm sau về Quyền đòi nợ: Quyền đòi nợ là một quyền tài sản có đối tượng là một khoản nợ theo đó nó mang tới cho người sở hữu quyền này có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện một nghĩa vụ tài chính đối với bên có quyền. Quyền đòi nợ là một loại quyền tài sản có đối tượng là một khoản nợ, tức là một khoản tiền. Quyền đòi nợ được liệt kê tại Điều 322 của BLDS năm 2005 như một trong số các quyền tài sản có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Không chỉ là đối tượng của giao dịch bảo đảm, quyền đòi nợ còn được mua, bán theo quy định tại Điều 449 BLDS năm 2005 về mua bán quyền tài sản.

Nói chung, cho dù dưới góc độ nào, việc nhận thức chính xác khái niệm về quyền đòi nợ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thiết lập và thực hiện các giao dịch liên quan đến quyền đòi nợ, cũng như trong việc xây dựng quy định pháp luật liên quan đến quyền đòi nợ. Theo tác giả, quyền đòi nợ là một quyền tài sản có đối tượng là một khoản nợ theo đó nó mang tới cho người sở hữu quyền này có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện một nghĩa vụ tài chính đối với bên có quyền.

1.1.2 Đặc điểm quyền đòi nợ

Là một quyền tài sản, quyền đòi nợ cũng có đầy đủ những đặc điểm của một quyền tài sản. Hai điều kiện để được coi là quyền tài sản cũng chính là hai đặc điểm của quyền đòi nợ. Điều 181 BLDS năm 2005 quy định: “quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao được trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”. Theo đó, quyền đòi nợ có hai đặc điểm: Thứ nhất, quyền đòi nợ phải trị giá được bằng tiền hay là phải tương đương với một đại lượng vật chất nhất định; Thứ hai, quyền đòi nợ đó có thể chuyển giao được trong giao dịch dân sự.

Có nhiều cách hiểu khác nhau về quyền đòi nợ nhưng cho dù được hiểu theo cách nào thì quyền đòi nợ vẫn phải mang những đặc điểm đặc trưng, những thuộc tính cơ bản để nhận biết đó là một quyền tài sản và để phân biệt

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/12/2022