Bảo Đảm Sự Độc Lập Và Đối Mới Hoạt Động Xét Xử Của Tòa Án



các quan hệ hôn nhân và gia đình như Luật đất đai, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự… cần tiếp tục hoàn thiện hơn. Đến nay các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình cũng như xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình đã bộc lộ nhiều bất cập. Để tăng cường bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình cụ thể cần hoàn thiện một số các quy định tại các văn bản pháp luật như:

Đối với luật Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: Hoàn thiện các quy định về điều kiện kết hôn, quy định về tài sản vợ chồng; căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ hoặc chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung và tài sản riêng, quyền của các bên trong giao dịch có đối tượng là tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ hoặc chồng; bổ sung thêm chế định ly thân..

Đối với Bộ luật tố tụng dân sự 2004: Hoàn thiện các quy định về ủy thác thu thập chứng cứ đối với những vụ án hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; mở rộng quyền phản tố của bị đơn, quyền đưa ra yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Bổ sung quy định về quyền trực tiếp đến Toà án để trình bày yêu cầu; Bổ sung quy định về quyền khởi kiện lại trong trường hợp Toà án đình chỉ giải quyết vụ án; Sửa đổi quy định về quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện. Sửa đổi quy định về điều kiện thời hiệu khởi kiện; Sửa đổi các quy định về điều kiện hoà giải tiền tố tụng; Bổ sung quy định về chỉ định người đại diện trong tố tụng; Sửa đổi quy định về điều kiện tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự nhờ người trợ giúp việc khởi kiện; Bổ sung, sửa đổi quy định về biện pháp hỗ trợ trong việc bảo vệ, thu thập chứng cứ, tài liệu.

Đối với các văn bản pháp luật có liên quan: Tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật khác có liên quan đến hoạt động giải quyết các vụ án về hôn nhân và gia đình như về mức thu chi tiền định giá tài sản, tiền chi phí giám định... và việc yêu cầu các cơ quan phải phối kết hợp với Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án về hôn nhân và gia đình.

Ngoài ra, trong quá trình xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình Tòa án cần



đa dạng hóa việc áp dụng pháp luật, đặc biệt vận dụng các phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp trong đời sống xã hội về hôn nhân và gia đình. Và bổ sung các quy định của pháp luật để công nhận hình thức án lệ áp dụng cho các quan hệ mới phát sinh khi chưa có qui định pháp luật điều chỉnh hoặc đã có qui định pháp luật nhưng việc điều chỉnh không còn phù hợp với thực tế. Trên thực tế, TAND Tối cao hàng năm đều có các công văn hoặc báo cáo công tác ngành để tổng kết rút kinh nghiệm, hướng dẫn công tác xét xử cho Tòa án các cấp. Đây là hoạt động rất cần thiết song chưa đủ, bên cạnh những hoạt động đó, TAND tối cao cần định kỳ ban hành các tập hợp án lệ điển hình để Tòa án các cấp học tập và rút kinh nghiệm trong hoạt động xét xử, cũng như phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, tiến tới xây dựng các Tập án lệ về hôn nhân và gia đình.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.

3.2.1.2. Bảo đảm sự độc lập và đối mới hoạt động xét xử của Tòa án

Về nguyên tắc Tòa án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi thực hiện xét xử nói chung và xét xử các vụ án hôn nhân và gia đinh nói riêng. Nhưng về mặt thực tế ở Việt Nam hiện nay chúng ta chưa tổ chức tư pháp hoàn toàn theo nguyên lý tư pháp độc lập. Điều này thể hiện ở chỗ Toà án nước ta được tổ chức căn cứ vào đơn vị hành chính lãnh thổ. Đã coi nguyên lý độc lập là một nguyên lý tổ chức tư pháp thì phải thiết kế cơ quan tư pháp tách khỏi cơ quan hành chính. Nếu tổ chức cơ quan tư pháp theo đơn vị hành chính sẽ làm hạn chế sự độc lập của cơ quan tư pháp, dễ tạo ra khả năng cho sự can thiệp của chính quyền địa phương vào hoạt động xét xử của Toà án. Vì vậy, Việt Nam có thể xây dựng mô hình Tòa án khu vực và phải được ghi nhận trong Hiến pháp làm cơ sở cho Tòa án hoạt động

Bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình - Qua thực tiễn TAND thành phố Hà Nội - 13

Phải xây dựng cơ chế xét xử bảo đảm sự độc lập của Toà án, độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là một trong những yếu tố quyết định chất lượng xét xử. Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 24 tháng 05 năm 2005 với tinh thần là hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân, bảo đảm Toà án xét xử độc lập, đúng pháp luật, kịp thời và nghiêm minh; đồng thời phân định thẩm quyền xét xử của Toà án sơ thẩm và Toà án phúc thẩm phù hợp với hai cấp xét xử. Để phù hợp với quan điểm cải cách tư pháp, Việt Nam cần bổ sung thêm điều khoản về nguyên tắc hai cấp xét xử của Tòa án trong Hiến pháp.



Mặt khác, để hoạt động xét xử của Tòa án được độc lập thì một trong những yếu tố vô cùng quan trọng là cần phải bảo đảm sự độc lập thực sự cho thẩm phán bởi lẽ thẩm phán là người cầm cân nảy mực, là niềm tin của người dân về sự công bằng, là người đại diện cho Nhà nước để bảo đảm công lý bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử. Để đạt được điều đó, hãy để thẩm phán làm việc theo pháp luật, không nên quy định nhiệm kỳ hoặc có quy định thì nhiệm kỳ của thẩm phán phải đủ dài, không hạn chế 5 năm như hiện nay.

Một trong những quan điểm chỉ đạo trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay là nâng cao chất lượng tranh tụng theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ- TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng. Các bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm phải là kết quả của quá trình tranh tụng công khai, dân chủ tại phiên tòa. Để thực hiện tranh tụng tại phiên tòa thì vai trò của Toà án có ý nghĩa quyết định, sự chủ động, sáng tạo, trách nhiệm của Toà án đến đâu chính là biểu hiện của nguyên tắc tranh tụng. Nếu không nâng cao vai trò và trách nhiệm của Toà án, đặc biệt là tại phiên toà thì tranh tụng khó có thể thực hiện được trên thực tế. Để tiến hành tranh tụng tại phiên toà là cả một quá trình chuẩn bị của đương sự thì Tòa án đóng vai trò rất quan trọng (chẳng hạn tạo điều kiện cho các đương sự trao đổi chứng cứ, hỗ trợ thu thập chứng cứ, các thủ tục tại phiên toà,...). Vì vậy đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử thì phải xác định rò hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh. Đồng thời, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp là một trong những điều kiện nhằm bảo đảm quyền công dân khi tham gia hoạt động xét xử nói chung và hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình.

Mặt khác, từ thực tiễn xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình hiện nay cho thấy rất nhiều trường hợp luật sư không được tạo điều kiện thuận lợi tham gia nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp công dân khi tham gia hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình. Nhiều quan điểm, đề xuất chứng cứ và kết quả



tranh tụng của luật sư tại phiên tòa không được ghi nhận trong bản án hoặc bác bỏ nhưng không nêu rò căn cứ pháp lý, dẫn đến nhiều quyết định của hội đồng xét xử thiếu tính thuyết phục, thậm chí bị coi là đã được ấn định từ trước. Do đó cần ghi nhận nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm và phán quyết của tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa vào quy định của Hiến pháp.

3.2.1.3. Tăng cường hiệu quả chương chính cải cách tư pháp

Trong những năm qua nhiều Nghị quyết của Đảng đã được quán triệt thành các kế hoạch hành động, điều này thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc cải cách tư pháp. Những văn bản có tính chất chiến lược cho phép các cơ quan pháp luật xem xét đánh giá và xây dựng kế hoạch chiến lược đáp ứng yêu cầu hội nhập hiện nay. Hệ thống các văn bản pháp luật được ban hành khá đầy đủ, tương đối phù hợp với thực tiễn làm cơ sở cho các cơ quan áp dụng pháp luật xét xử các vụ án hình sự, dân sự và hôn nhân gia đình. Sau khi các văn bản luật được ban hành, cơ quan có thẩm quyền đã có những hướng dẫn chi tiết và tập huấn cho các cán bộ tư pháp nắm bắt kịp thời và áp dụng thống nhất pháp luật.

Tại Nghị quyết 49 - NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rò, hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử trong đó có hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình phải được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Ðiều này cũng tiếp tục được khẳng định tại Kết luận 92 - KL/TW của Bộ Chính trị ngày 12-3-2014 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết 49. Ðể đạt được mục tiêu trên, ngành tòa án cần tiếp tục có những thay đổi căn bản về cơ cấu tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động.

Xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và phù hợp với tình hình địa phương thì việc xây dựng cơ chế xét xử bảo đảm yêu cầu dân chủ, giản tiện, hiệu quả và minh bạch là một việc làm cần thiết. Các đương sự được quyền đòi hỏi các thông tin từ các cơ quan tiến hành tố tụng trong phạm vi luật định, có quyền thực hiện bất cứ những gì mà pháp luật không cấm và yêu cầu tòa án phải bảo đảm các quyền công dân của mình trong hoạt động xét xử. Đối với các vụ án hôn nhân - gia



đình phải xuất phát từ đặc trưng của tranh chấp và các chủ thể tham gia, Toà án thực hiện xét xử nhân danh Nhà nước để nhằm mục đích điều hoà các mâu thuẫn giữa các bên bằng pháp luật, chứ không phải sự thể hiện hình thức, thủ tục như tại phiên tòa là thể hiện tính chất quyền lực và trên cơ sở bảo đảm cao nhất quyền công dân trong hoạt động xét xử. Tổ chức phiên tòa giản tiện như phiên họp sẽ phù hợp hơn để có sự trao đổi, trình bày, tranh luận phù hợp với việc giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình, giảm bớt sự nặng nề và mang lại hiệu quả cao.

3.2.1.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong ngành Tòa án

Muốn tăng cường bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình thì yếu tố quyết định đó là con người. Bởi yếu tố con người lúc nào cũng đóng vai trò quyết định. Cán bộ, công chức của ngành Tòa án là chủ thể trực tham gia hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình. Các chủ thể tham gia hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình muốn thực hiện tốt vai trò của mình và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao thì họ phải được làm việc trong một cơ cấu tổ chức được sắp xếp một cách khoa học và hợp lý. Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhằm tăng cường bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình cần phải thực hiện ở những mặt sau:

Về đào tạo, bồi dưỡng: Phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán thường xuyên, chuyên sâu về nghiệp vụ đối với xét xử các vụ án về hôn nhân và gia đình trong đó có vấn đề bảo đảm quyền công dân. Tổng kết công tác thực tiễn và học tập nghị quyết, chủ trương chính sách của Đảng một cách thường xuyên. Cần tạo điều kiện cho Thẩm phán trong nhiệm kỳ, có thời gian thích hợp để bồi dưỡng nghiệp vụ cập nhật những thông tin mới về khoa học pháp lý để họ không lạc hậu về kiến thức lý luận.

Thực hiện tốt công tác đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, Thẩm phán các cấp để tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho ngành Tòa án với các hình thức như: đào tạo Thẩm phán, đào tạo cán bộ quản lý và đào tạo cán bộ khác. Bảo đảm cán bộ khi được quy hoạch, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo hoặc ngạch Thẩm phán cao hơn phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức bổ sung nhằm nâng cao trình



độ năng lực và phẩm chất đạo đức, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ở cương vị mới. Cùng với việc đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cần chú trọng đào tạo kiến thức xã hội, khả năng sử dụng kỹ thuật tiên tiến và kỹ năng thực hiện công tác dân vận cho đội ngũ cán bộ, Thẩm phán. Kết hợp đào tạo trong nước với đào tạo ở nước ngoài để tăng cường đội ngũ cán bộ phục vụ yêu cầu hội nhập quốc tế.

Về biên chế: TAND tối cao cần xây dựng phương án bổ sung biên chế hàng năm cho TAND các cấp nhất là biên chế Thẩm phán, Thư ký; khắc phục việc để chậm trễ khi nghiên cứu hồ sơ bổ nhiệm và bổ nhiệm lại Thẩm phán; sớm hướng dẫn về việc thành lập bộ phận theo dòi công tác thi hành án hình sự trong cơ cấu tổ chức của Tòa án. Quy định cụ thể, hợp lý hơn về tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán khi đánh giá, kiểm điểm, xem xét bổ nhiệm lại.

Xây dựng kế hoạch điều động, luân chuyển cán bộ giữa các đơn vị trong ngành; công khai minh bạch trong công tác tổ chức thi tuyển; tuyển dụng đủ cán bộ, công chức và bảo đảm chất lượng cán bộ theo chỉ tiêu biên chế đã được Toà án nhân dân tối cao phân bổ; tiếp tục rà soát, phân loại, đánh giá chất lượng cán bộ lãnh đạo và cán bộ có chức danh tư pháp để sắp xếp, bố trí hợp lý, đúng năng lực, trình độ nhằm bảo đảm cho việc hoàn thành nhiệm vụ trong công cuộc cải cách tư pháp.

Về chế độ, chính sách: TAND các cấp phải thực hiện rà soát, thống kê số lượng, chất lượng xét xử của Thẩm phán trong toàn ngành theo từng tháng, quý, 6 tháng và năm công tác, trên cơ sở đó đề xuất Chánh án TAND xem xét, quyết định khen thưởng đột xuất đối với những Thẩm phán hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ để kịp thời động viên, khích lệ phấn đấu, đồng thời có văn bản nhắc nhở, phê bình đối với các Thẩm phán chưa bảo đảm định mức xét xử. Nếu bị nhắc nhở, phê bình lần thứ hai sẽ không tiến hành bình xét thi đua.

3.2.1.5. Nâng cao vai trò của Hội thẩm nhân dân

Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, nâng cao vai trò của hội thẩm nhân dân nhằm bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử vụ án hôn nhân và gia đình, thì mỗi hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử cần hiểu được chỉ có Tòa án là chủ thể có quyền nhân danh Nhà nước đưa ra phán quyết đối với bản án. Sự phán quyết ấy có ý chí của hội thẩm và sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích



của Nhà nước, của cá nhân, tổ chức, ảnh hưởng đến uy tính của quốc gia trên trường quốc tế.

Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, phát huy quyền tự do dân chủ sâu rộng cho nhân dân, thì công tác áp dụng pháp luật phải càng được coi trọng. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục khẳng định vai trò, tầm quan trọng của chế định hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử. Đồng thời, quá trình xây dựng pháp luật về hội thẩm cần có quy định rò về quyền và nghĩa vụ của hội thẩm khi tham gia phiên tòa; từng bước nâng cao chất lượng hội thẩm từ lúc tuyển chọn, cho đến khi xét xử.

Để nâng cao trách nhiệm của hội thẩm nhân dân khi tham gia xét xử nói chung và hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng cần phải thực hiện một số giải pháp sau:

Về đào tạo, bồi dưỡng: Hội thẩm nhân dân cần hiểu rằng, trong quá trình xét xử, hội thẩm và thẩm phán xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật. Để giải quyết được tốt vấn đề này, thì Ngành Tòa án hàng năm cần phải có kế hoạch quan tâm đầu tư kinh phí để bồi dưỡng nâng cao trình độ pháp lý cho đội ngũ hội thẩm. Vì khi hội thẩm nhân dân có sự am hiểu pháp lý như thẩm phán, thì chắc chắn rằng, trong quá trình giải quyết vụ án, hội thẩm sẽ không lúng túng, khi phán quyết bản án sẽ khách quan, khoa học. Có như vậy, mới giải quyết tốt vấn đề pháp luật đặt ra là thẩm phán và hội thẩm nhân dân ngang quyền nhau trong quá trình giải quyết vụ án.

Về tiêu chuẩn bổ nhiệm, thành lập đoàn hội thẩm: Cần quy định rò ràng hơn về tiêu chuẩn lựa chọn hội thẩm nhân dân, vì điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình xét xử; quy định rò về cách thức lựa chọn, cách thức thành lập đoàn hội thẩm, quy định trách một cách rò ràng quyền và nghĩa vụ pháp lý cho hội thẩm; sáu tháng hoặc một năm, TAND cần có hội nghị tổng kết tình hình xét xử của hội thẩm. Thông qua các cuộc hội nghị để đánh giá chất lượng hoạt động của hội thẩm, Đoàn hội thẩm, từ đó Ngành Tòa án cần có hướng giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc của hội thẩm nhân dân. Chánh án TAND địa phương cần có mối liên hệ



với cơ quan, đơn vị có cán bộ, công chức tham gia hội thẩm ở Tòa án mình. Để qua đó, có thông tin về ý thức, trách nhiệm hoạt động của hội thẩm tại Tòa án mình với cơ quan, tổ chức. Cần có quy định thêm về tiêu chuẩn đánh giá cán bộ, công chức là hội thẩm nhân dân trong nhiệm kỳ của mình hoạt động đúng pháp luật có thể được tăng lương trước thời hạn.

Về chế độ, chính sách: Kinh phí cho hội thẩm tham gia xét xử rất ít, chỉ có 50.000đ/ngày xét xử cũng như đọc hồ sơ vụ án, dẫn đến các hội thẩm thường không yên tâm, tập trung cho công việc xét xử. Cho nên, tư tưởng các hội thẩm được thẩm phán mời tham gia phiên tòa thông qua thư ký thường từ chối khéo là bận đi công tác, hoặc bận giải quyết công việc cơ quan. Vậy nên cần phải có chế độ, chính sách hợp lý đối với hội thẩm nhân dân để nâng cao tinh thần trách nhiệm khi tham gia hoạt động xét xử cũng như góp phần bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình tại Tòa.

Về trách nhiệm: Pháp luật cần quy định trước thời gian khai mạc phiên tòa yêu cầu hội thẩm nhân dân phải có thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án ít nhất một tuần mới được tham gia xét xử vụ án. Để tránh những trường hợp hội thẩm không đọc hồ sơ vụ án cũng tham gia xét xử, đồng thời tránh được trường hợp “chữa cháy” hội thẩm, chủ tọa phải phải thay thế bằng hội thẩm khác, trong khi đó, quyết định vụ án đem ra xét xử không có tên hội thẩm tham gia theo quyết định và chủ tọa phiên tòa lại phải giải thích cho các đương sự về bổ sung hội thẩm mới.

3.2.1.6. Tăng cường tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật

Trước tiên, để làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về pháp luật hôn nhân và gia đình, pháp luật về tố tụng dân sự và các quy định bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình cần có sự tìm hiểu về thái độ của người dân đối với pháp luật, họ hiểu pháp luật như thế nào? Pháp luật có vai trò gì trong cuộc sống của họ?... Có thể nói, phần lớn người dân thường cho rằng “pháp luật” là những mệnh lệnh mà người ta cần phải tuân thủ, là hình phạt, là trừng trị… người khác thì cho rằng, pháp luật chỉ là để giải quyết các tranh chấp. Người dân thường chỉ quan tâm tới pháp luật khi bản thân họ phải

Xem tất cả 132 trang.

Ngày đăng: 02/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí