Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân - 8

liên quan được thực hiện trên thực tế; chống lại việc vi phạm các quyền con người nói chung và quyền con người trong tố tụng hình sự nói riêng.

Để mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện, điều tra, xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát được sử dụng tổng hợp mọi quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước tòa án. Điều 112 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định những nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, như sau:

1. Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này;

2. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật này;

3. Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của Bộ luật này; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự;

4. Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rò lý do;

5. Huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can;

6. Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án [45, Điều 112].

Sau khi khởi tố vụ án, Cơ quan điều tra phải tiến hành điều tra để làm rò: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can và những đặc điểm về nhân thân của bị can; cũng như tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra (Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003). Pháp luật tố tụng hình sự quy định mọi hoạt động điều tra được tiến hành sau khi khởi tố vụ án, trừ một số biện pháp điều tra khẩn cấp không thể bị trì hoãn được như khám nghiệm hiện trường.

Khác với giai đoạn khởi tố vụ án, quyết định khởi tố vụ án hình sự chỉ mang tính chất là quyết định pháp lý tuyên bố với toàn xã hội có sự việc phạm tội xảy ra, thì trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, bằng các biện pháp điều tra nhất định, cơ quan điều tra xác định được người thực hiện hành vi phạm tội khi đủ căn cứ và ra quyết định khởi tố bị can. Quyết định khởi tố bị can là quyết định pháp lý chính thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tuyên bố về mặt pháp lý một người cụ thể có dấu hiệu tội phạm và đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc làm này, nếu không thực hiện đúng những trình tự, thủ tục cũng như không áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự, thì nguy cơ vi phạm quyền con người là rất lớn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

Trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ đề ra yêu cầu tiến hành các hoạt động điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra, thông qua việc: thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm làm rò có tội phạm xảy ra hay không hoặc làm rò các tình tiết của vụ án như: làm rò động cơ, mục đích phạm tội, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra… còn việc tiến hành các hoạt động điều tra đó như thế nào do Cơ quan điều tra tiến hành theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Đề ra yêu cầu điều tra là

nội dung rất quan trọng trong công tác thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra. Trong khi tiến hành kiểm sát điều tra, phải kịp thời đề ra các yêu cầu điều tra khi cần thiết để làm rò nội dung vụ án. Cụ thể: Yêu cầu điều tra có thể được thực hiện ngay khi có tin báo, tố giác tội phạm để làm rò có tội phạm xảy ra hay không hoặc sau khi khởi tố vụ án hình sự để làm rò đối tượng gây án, có thể ngay trong quá trình điều tra để củng cố chứng cứ về hành vi phạm tội của các bị can. Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện những yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân. Nếu Cơ quan điều tra không nhất trí thì vẫn phải chấp hành nhưng có quyền khiếu nại với Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp giải quyết theo quy định tại Điều 330 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Thực tế đã cho thấy, nếu làm tốt công tác này thì việc giải quyết vụ án ở các trình tự tố tụng tiếp theo sẽ gặp nhiều thuận lợi, hạn chế được tình trạng trả hồ sơ cho cơ quan điều tra để điều tra bổ sung hoặc điều tra lại.

Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân - 8

Để bảo đảm việc giải quyết vụ án được khách quan, chính xác, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội phạm, khi phát hiện Điều tra viên được phân công giải quyết vụ án hình sự thuộc trường hợp phải thay đổi theo qui định tại Điều 43 và Điều 44 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì Viện kiểm sát phải kịp thời yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên. Trong trường hợp xét thấy hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì yêu cầu Cơ quan điều tra có thẩm quyền xem xét để khởi tố về hình sự.

Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có quyền quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nới cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Đối với những biện pháp tố tụng, hành vi tố tụng mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát như: Phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp; phê chuẩn quyết định tạm giữ; phê chuẩn quyết

định khởi tố bị can; phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam; phê chuẩn lệnh tạm giam… thì Viện kiểm sát có quyền quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Mọi trường hợp từ chối phê chuẩn đều phải nêu rò lý do của việc không phê chuẩn.

Trong trường hợp phát hiện các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện kiểm sát thực hành quyền công tố bảo đảm việc điều tra khách quan, toàn diện, đúng pháp luật, có quyền ra quyết định huỷ bỏ các quyết định, như: Quyết định tạm giữ; quyết định khởi tố bị can; quyết định khởi tố vụ án hình sự; quyết định về việc bảo lĩnh; quyết định đình chỉ điều tra vụ án… của Cơ quan điều tra. Trong trường hợp bị can trốn hoặc không biết bị can đang ở đâu mà Cơ quan điều tra không ra quyết định truy nã thì Viện kiểm sát phải kịp thời yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị can theo qui định tại Điều 161 Bộ luật tố tụng hình sự.

Việc quy định quyền và nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra là điểm mới so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. Việc tăng cường chức năng của cơ quan kiểm sát như trên, suy cho cùng, là để tìm ra những căn cứ pháp lý, đảm bảo cho hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ đối với một con người cụ thể hoặc những người nhất định đã thực hiện hành vi xâm hại đến quyền, lợi ích chính đáng của người khác, tránh oan, sai cũng như không để lọt tội phạm, qua đó, góp phần vào việc bảo vệ quyền con người, quyền của những người tham gia tố tụng hình sự.

Bên cạnh việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, một chức năng quan trọng nữa của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn này là chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Theo quy định tại Điều 113 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, khi kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra thì Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:

- Kiểm sát việc khởi tố bị can và hoạt động điều tra:

Thông thường, việc khởi tố bị can được thực hiện sau khi khởi tố vụ án hình sự. Cũng có trường hợp khi xác định có dấu hiệu tội phạm xảy ra thì đồng thời cũng xác định được người thực hiện hành vi phạm tội đó. Trong trường hợp này thì phải khởi tố vụ án hình sự, đồng thời tiến hành khởi tố bị can. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, thì Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm xét, phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra, nhằm đảm bảo việc khởi tố một công dân phải có căn cứ, đúng pháp luật, đúng người, đúng tội. Do đó, khi nhận được quyết định khởi tố bị can và các tài liệu có liên quan do Cơ quan điều tra chuyển đến, Kiểm sát viên phải nghiên cứu tài liệu, kiểm sát chặt chẽ tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định khởi tố bị can. Tính có căn cứ của quyết định khởi tố bị can được thể hiện qua những chứng cứ có trong tài liệu gửi kèm, khẳng định chính bị can là người đã thực hiện hành vi phạm trong vụ án và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội đó. Tính hợp pháp của quyết định khởi tố bị can thể hiện ở thủ tục ra quyết định và hình thức quyết định khởi tố bị can theo đúng quy định tại điều 126 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Nếu quyết định khởi tố bị can thỏa mãn, hoặc không thỏa mãn hai điều kiện trên thì Kiểm sát viên làm báo cáo đề xuất, báo cáo rò tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định khởi tố và đề xuất Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân xem xét, quyết định.

Trong giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra có quyền áp dụng các biện pháp điều tra, trong đó, có các biện pháp mang tính cưỡng chế, tác động tới các quyền cơ bản của công dân. Do vậy, kiểm sát khởi tố bị can chính là sự biện pháp để ngăn ngừa việc oan, sai, bỏ lọt tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân đối với Cơ quan điều tra ngay ở thời điểm đầu của tố tụng hình sự.

Khi kiểm sát các hoạt động điều tra, Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát

các biện pháp điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan Điều tra. Các hoạt động điều tra bao gồm khám nghiệm hiện trường; khám nghiệm tử thi; lấy lời khai của người làm chứng; triệu tập và lấy lời khai của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; hỏi cung bị can; đối chất; nhận dạng; thực nghiệm điều tra; khám xét; thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản; trưng cầu giám định,... các hoạt động này được quy định từ điều 129 đến điều 159 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

Trong hoạt động này, Viện kiểm sát nhân dân xem xét Cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động điều tra có đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 hay không như về phân cấp điều tra từng loại vụ án, trình tự thủ tục tiến hành các biện pháp điều tra, người ra quyết định tố tụng, bảo đảm các yêu cầu điều tra được thực hiện đầy đủ …Hoạt động điều tra là hoạt động dễ xâm phạm đến quyền con người, Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ các biện pháp mà cơ quan điều tra áp dụng, để đảm bảo việc điều tra đúng người, đúng tội, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của chính người bị điều tra và những người tham gia tố tụng khác. Khi thấy có vấn đề cần phải điều trả thêm, cần kịp thời yêu cầu điều tra bổ sung.

Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi là hoạt động rất có ý nghĩa đối với kết quả của hoạt động điều tra. Hiện trường là nơi tội phạm xảy ra hoặc phát hiện được tội phạm. Dấu vết của tội phạm, ít nhiều sẽ còn để lại hiện trường và trên tử thi. Khám nghiệm đầy đủ, chính xác, bảo đảm đúng các nguyên tắc, phương pháp khám nghiệm, sẽ tạo điều kiện thuận lợi để xác định chính xác thời gian thực hiện tội phạm, phương thức cũng như phần nào đưa ra những hình dung ban đầu về người thực hiện tội phạm. Viện kiểm sát phải tham gia đầy đủ các cuộc khám nghiệm hiện trường, bảo đảm không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.

Các biện pháp điều tra: Hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng,

người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quy định rất chặt chẽ trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Các biện pháp này có nguy cơ xâm hại đến quyền con người. Đối với các biện pháp này, Viện kiểm sát nhân dân cần kiểm sát chặt chẽ những lời khai này, ngoài việc kiểm sát trên hồ sơ, nếu thấy cần thiết, Viện kiểm sát nhân dân cần trực tiếp hỏi những người này, để kiểm tra tính khách quan, đúng đắn trong lời khai của họ.

Viện kiểm sát nhân dân phải kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn của Cơ quan điều tra. Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự không phải là biện pháp điều tra, nhưng thường được áp dụng trong hoạt động điều tra, với ý nghĩa là những biện pháp đảm bảo cho hoạt động điều tra có kết quả và hiệu quả. Tuy nhiên, biện pháp ngăn chặn là biện pháp can thiệp tới các quyền cơ bản của công dân, nhất là biện pháp tạm giữ, tạm giam, cho nên chỉ được áp dụng biện pháp này khi thật cần thiết, và phải có đủ các căn cứ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền, đối tượng và căn cứ áp dụng. Việc bảo đảm áp dụng biện pháp ngăn chặn đúng pháp luật là trách nhiệm của Viện kiểm sát, vì “….ở đâu có việc bắt giam, giữ trái pháp luật thì Viện kiểm sát ở đó phải chịu trách nhiệm” [15]. Bởi, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đều có dấu ấn của Viện kiểm sát, hoặc là kiểm sát tính có căn cứ, hợp pháp của các quyết định, hoặc trực tiếp áp dụng hoặc phê chuẩn các quyết định này. Do đó, trong quá trình điều tra, khám phá vụ án, Viện kiểm sát phải đảm bảo để Cơ quan điều tra không lợi dụng việc áp dụng biện pháp ngăn chặn như là một biện pháp điều tra để đảm bảo việc khai báo thành khẩn, nhanh chóng của những người bị bắt, bị tạm giữ, bị can; tránh việc bức cung, dùng nhục hình trong quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn, xâm phạm đến quyền công dân, quyền con người của họ

Ngoài ra, Viện kiểm sát phải kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan

Điều tra có gì sai sót về thủ tục tố tụng, để từ đó có cơ sở thực hiện quyền công tố theo Điều 112 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, như: việc lập hồ sơ vụ án phải đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật về cách sắp xếp tài liệu có trong hồ sơ, nhưng tài liệu nào có trong hồ sơ, việc đánh số bút lục....

- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.

Viện kiểm sát nhân dân phải kiểm sát sự chấp hành pháp luật của những người tiến hành tố tụng trong việc thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, kiểm sát việc chấp hành pháp luật (chẳng hạn việc cung cấp tài liệu, chứng cứ hay chấp hành sự triệu tập của cơ quan điều tra…) của những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật; Đồng thời, bảo đảm việc tuân thủ pháp luật của những người tiến hành tố tụng, bảo đảm quyền lợi của những người tham gia tố tụng và không làm ảnh hưởng, hạn chế, hoặc xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Cụ thể như sau:

+ Mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Nhà nước quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng, quy định trình tự, thủ tục khi tiến hành các hoạt động tố tụng, để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác, có hiệu quả, đồng thời yêu cầu những chủ thể này phải tuyệt đối tuân thủ các quy định đó (Điều 3 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).

+ Công dân có quyền được tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của mình trong tố tụng hình sự. Các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có trách nhiệm tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân (Điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003). Công dân được đối xử bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, phân biệt nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội (Điều 5 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003); Không ai

Xem tất cả 118 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí