Khái Niệm, Bản Chất Pháp Lý Của Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Hình Sự

động tố tụng của CQĐT và cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ đề nghị truy tố, tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và phòng ngừa [4].

Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan (người) tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của Cơ quan Điều tra về việc đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ vụ án hình sự tương ứng.

Giai đoạn điều tra hình sự có vai trò đặc biệt quan trọng nhằm trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội và người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm thông qua các chứng cứ đã thu thập được.

Giai đoạn điều tra hình sự có vai trò đặc biệt quan trọng để thực hiện nguyên tắc không bỏ lọt tội phạm và không làm oan cho người vô tội, góp phần vào hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vấn đề đặc biệt quan trọng theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền, là phải nhận thức và thực hiện nhiệm vụ bảo đảm quyền con người trong hoạt động điều tra.

Hiện nay, tuy BLTTHS năm 2003 đã có nhiều quy định chặt chẽ về giai đoạn điều tra, song so với yêu cầu bảo đảm quyền con người thì có thể nói là còn nhiều hạn chế xét theo các tiêu chí của pháp luật quốc tế về quyền con người. Ví dụ như về chứng cứ:

Người bị buộc tội mặc dù được quyền đưa ra các chứng cứ nhưng BLTTHS lại không quy định cho họ có quyền sử dụng những biện pháp (chủ yếu) của TTHS đối với việc thu thập chứng cứ, mà chỉ có quyền đưa ra các yêu cầu nhưng yêu cầu này có được chấp nhận hay không lại tùy thuộc vào ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng [4].

Điều 63 BLTTHS năm 2003 quy định những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự:

- Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;

- Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;

- Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân bị can, bị cáo;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

- Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra [22].

Theo pháp luật hình sự Việt Nam, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về CQĐT, người phạm tội có quyền nhưng không bắt buộc chứng minh mình vô tội. Điều tra là một quá trình khám phá tội phạm, là công cụ, phương tiện của quá trình nhận thức tội phạm. Điều tra được tiến hành dưới nhiều hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp, công khai hoặc bí mật, diện hoặc điểm và được tiến hành bằng hành động điều tra trinh sát, điều tra TTHS. Điều tra trinh sát là hoạt động nghiệp vụ đặc biệt của lực lượng công an, được tổ chức tiến hành dưới hình thức bí mật, trên cơ sở vận dụng những quy định của pháp luật nhằm thu thập tin tức, tài liệu phản ánh về hoạt động của bọn tội phạm để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và khám phá nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời các tội phạm xảy ra [28].

Áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, qua thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải phòng - 4

1.2.2. Khái niệm, bản chất pháp lý của kiểm sát điều tra các vụ án hình sự

- Chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND

Về lý luận và thực tiễn, cần nhận thức và áp dụng đầy đủ và đúng đắn về hai chức năng hiến định của VLSND: thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.

Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 6 năm 2015 đã xác định rò ràng về chức năng của VKSND: Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (điều 2).

Luật tổ chức VKSND 2004 đã quy định rò khái niệm, bản chất pháp lý giữa chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tại điều 3 và điều 4 [23].

- Thực hành quyền công tố của VKSND: Theo điều 3, Luật tổ chức VKSND 2004:

Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.

Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định rò thẩm quyền của VKSND khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra (điều 112 BLTTHS):

Ki thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này; 2. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật này; 3. Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của Bộ luật này; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; 4. Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rò lý do; 5. Huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can; 6. Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án [22].

- Kiểm sát hoạt động tư pháp

Điều 4, Luật tổ chức VKSND 2004, về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân, đã quy định:

Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân

dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.

Nội dung của hoạt động kiểm sát điều tra của VKSND được xác định (điều 113 BLTTHS): 1. Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra; 2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng; 3. Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra;4. Yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều tra viên; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra viên đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra;5. Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.

Hoạt động KSĐT của VKSND có phạm vi rộng lớn, xuyên suốt từ quá trình phát hiện hành vi phạm tội đến giai đoạn làm rò hành vi cùng tính chất, mức độ, hậu quả, nhân thân kẻ phạm tội, những thiệt hại đã xảy ra đến việc truy tố kẻ phạm tội ra trước TAND để xét xử.

Như vậy, về căn cứ pháp lý, giữa hai hoạt động thuộc chức năng của VKSND là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nói riêng có sự khác nhau nhất định.

Kiểm sát điều tra là hoạt động thuộc chức năng hiến định của VKSND, vừa có đặc điểm chung như các hình thức giám sát khác của nhà nước, vừa lại có những đặc thù riêng. Xét trong cơ chế tổ chức, phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước, VKSND có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng bên cạnh các hình thức kiểm soát quyền lực khác. "Trong hoạt động TTHS Viện kiểm sát vừa là đối tượng của quyền giám sát của các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội khi tiến hành

chức năng thực hành quyền công tố trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đồng thời là chủ thể của quyền giám sát đối với hoạt động TTHS" [3].

- Vai trò của VKSND trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự

Năm 2014 là năm đầu tiên thi hành Hiến pháp năm 2013 đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực. Trong Hiến pháp có nhiều nội dung mới và có những nguyên tắc về tư pháp rất tiến bộ, rất mới. Hiến pháp cũng quy định phải kiểm sát chặt chẽ hơn những biện pháp cưỡng chế tố tụng liên quan đến việc hạn chế quyền con người theo tinh thần đảm bảo tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

VKSND bằng hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm mọi hành vi tội phạm đều phải được xử lý kịp thời, việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung và của bị can, bị cáo nói riêng được tôn trọng ở tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự. Trong việc thực hiện hoạt động kiểm sát việc điều tra các

Viện kiểm sát không thực hiện (trực tiếp hay gián tiếp) các hoạt động tố tụng như quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng… Các hoạt động này do các cơ quan có thẩm quyền điều tra tội phạm thực hiện. Viện kiểm sát chỉ giám sát việc tuân thủ pháp luật, kiểm sát tính hợp pháp và tính có căn cứ của các hành vi, quyết định tố tụng của các chủ thể tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra và sự chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng.

Trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự, vai trò của VKSND là bảo vệ pháp luật, bảo vệ các quyền,lợi ích hợp pháp của con người và công dân, bảo vệ chế độ XHCN, đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều bị phát hiện xử lý nhanh chóng nghiêm minh kịp thời; không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Đông thời thông qua hoạt động kiểm sát tư pháp, VKSND có vai trò phát hiện sự hạn chế, mâu thuẫn, tính phù hợp hay không phù hợp của các quy định pháp luật hiện hành. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng để hoàn thiện các văn bản pháp luật như BLTTHS, Luật tổ chức VKSND, BLHS.

- Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự

Hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự có mối quan hệ hữu cơ, tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Hoạt động kiểm sát điều tra là tiền đề bảo đảm quyết định truy tố đúng người, đúng tội, có căn cứ, không làm oan người vô tội, tạo lập niềm tin của xã hội vào nền tư pháp quốc gia, vào công lý, pháp luật.

Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra được thực hiện đồng thời, xuyên suốt quá trình điều tra, từ khi có tin báo, tố giác tội phạm cho đến khi kết thúc việc điều tra và có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau. Thực hành quyền công tố và kiểm sát ở giai đoạn điều tra đều hướng tới là nhằm bảo đảm mọi hành vi tội phạm đều phải được phát hiện và điều tra, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.

Viện kiểm sát là cơ quan nhà nước duy nhất được giao trách nhiệm thực hành quyền công tố để đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân, Nhà nước và xã hội. Nội dung cơ bản của chức năng công tố là truy tố bị can ra trước Toà án (đưa ra lời buộc tội nhân danh nhà nước thể hiện trong cáo trạng và duy trì buộc tội trước Toà án) để truy cứu trách nhiệm hình sự của người đó, “bảo đảm nguyên tắc tội phạm không tránh khỏi hình phạt của Bộ luật Hình sự...Hoạt động công tố luôn là hoạt động chủ đạo của VCT cũng như VKS ở các nhà nước khác nhau bởi lẽ đấu tranh chống tội phạm luôn là mối quan tâm đặc biệt của mọi nhà nước” [18].

Đồng thời hai chức năng, hai loại hoạt động này lại có mục đích đặc trưng riêng ở giai đoạn điều tra.

Để tiếp tục thực hiện chủ trương: “Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” theo Chỉ thị số 06/2013/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 của Viện trưởng VKSND tối cao về “tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm”, cần phân biệt hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự.

Mục đích của hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra là nhằm chứng minh tội phạm và người phạm tội, là quá trình đưa người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Hoạt động kiểm sát điều tra có mục đích nhằm phát hiện vi phạm trong hoạt động điều tra và kiến nghị, yêu cầu khắc phục vi phạm, bảo đảm việc điều tra theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, không bỏ lọt tội phạm. Như vậy, bên cạnh đặc thù riêng, hai loại hoạt động của VKSND: thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra có mục đích chung. Làm tốt các hoạt động kiểm sát điều tra quy định tại Điều 113 BLTTHS là nhằm bổ trợ, là điều kiện để bảo đảm tốt hơn cho hoạt động thực hành quyền công tố.

Trên thực tiễn, sự phân biệt, tách bạch giữa hai loại hoạt động này - thực

hành quyền công tố và KSĐT cũng còn có khó khăn nhất . Về phương diện lý luân ,

viêc phân biêṭ , tách bạch hai công tác này chưa được làm rò , mặc dù Bộ luật TTHS

đã có quy định tại hai điều luật - điều 112 và điều 113. Tại Hội nghị triển khai công

tác kiểm s át năm 2011, đồng chí Viên trưởng VKSNDTC đã nhấn mạnh đến tầm

quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn về vấn đề trên: cần có cách nhìn toàn diện, đầy đủ về quan hệ giữa thực hành QCT với KSĐT; tăng cường hơn nữa vai trò chủ động của Viện kiểm sát rong quá trình điều tra…; Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra nghĩa là Viện kiểm sát phải “song hành” cùng với cơ quan điều tra trong hoạt động điều tra, làm rò tội phạm và người phạm tội; phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra để tìm giải pháp phát hiện, xử lý tội phạm khẩn trương nhất, đầy đủ nhất.

Mối quan hệ mật thiết giữ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của ngành kiểm sát nhân dân đã thể hiện ở chủ trương “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”. Trong thực tiễn ở thành phố Hải phòng, nhằm đảm bảo thống nhất trong việc ban hành yêu cầu điều tra, VKSND thành phố đã hướng dẫn các đơn vị thực hiện yêu cầu điều tra và kiểm sát việc kết thúc điều tra. Theo đó, VKSND thành phố đưa ra tiêu chí những vụ án bắt buộc Kiểm sát viên phải đề ra yêu cầu điều tra, xây dựng mẫu báo kiểm sát việc

kết thúc điều tra. Đồng thời, Viện kiểm sát hai cấp tiếp tục đẩy mạnh hoạt động kiểm sát ngay từ khi khởi tố vụ án hình sự.

Chất lượng và hiệu quả thực hiện chức năng kiểm sát tư pháp có tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến đến chất lượng và hiệu quả thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và ngược lại. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra vụ án hình sự là điều kiện để bảo đảm thực hành quyền công tố đúng đắn, chính xác, khách quan.

Mối quan hệ giữa hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của VKSND được biểu hiện ở chỗ: để thực hiện tốt hoạt động thực hành quyền công tố, đảm bảo việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn; phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác của CQĐT đúng pháp luật về thủ tục và nội dung đòi hỏi phải kiểm tra chặt chẽ tính có căn cứ và tính hợp pháp của các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự mà cơ quan điều tra đã quyết định áp dụng.

Thực hành quyền công tố có chất lượng là điều kiện để bảo đảm kịp thời phát hiện những sai sót, những vi phạm pháp luật xẩy ra trong quá trình điều tra, là yếu tố tích cực, động lực thúc đẩy nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra. Giữa hai hoạt động này có quan hệ rất chặt chẽ, luôn gắn chặt với nhau, hỗ trợ nhau để cùng thực hiện nhiệm vụ, mục đích chung là bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, xác định đúng người phạm tội, không làm oan cho người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.

1.3. Áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân

1.3.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân

Để thực hiện các chức năng hiến định của mình, VKSND phải căn cứ vào các quy định pháp luật có liên quan và theo những trình tự, thủ tục nhất định. Như vậy, áp dụng pháp luật là cách thức để VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.

Xem tất cả 124 trang.

Ngày đăng: 26/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí