thực tế đã xảy ra; đối chiếu cơ sở thực tiễn với cơ sở pháp lý; lựa chọn các quy phạm pháp luật có giả định phù hợp với tình huống thực tế; ra văn bản ADPL; tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện văn bản ADPL đó trên thực tế.
ADPL hình sự của TAND được thực hiện thông qua những người tiến hành tố tụng (thẩm phán, hội thẩm, chánh án, phó chánh án) trên cơ sở tuân thủ những qui định chặt chẽ về trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng hình sự và căn cứ vào các tài liệu chứng cứ được thu thập trong quá trình xác định sự thật của vụ án, nhằm áp dụng những quy phạm pháp luật hình sự vào vụ án hình sự cụ thể, đối với bị cáo cụ thể khi xác định bị cáo có tội để quyết định trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự nếu có. Tuy tiến hành nhiều hoạt động ADPL hình sự cụ thể, nhưng nội dung chủ yếu trong hoạt động ADPL hình sự của Tòa án là định tội đối với bị cáo và lượng hình nếu bị cáo có tội.
Dựa trên tiêu chí về loại quy phạm pháp luật áp dụng trong hoạt động giải quyết án hình sự, có thể phân chia ADPL thành hai dạng:
+ ADPL nội dung (quy phạm pháp luật hình sự);
+ ADPL hình thức (quy phạm pháp luật tố tụng hình sự).
Dựa trên tiêu chí về trình tự thủ tục trong cả quá trình giải quyết án hình sự, có thể phân chia ADPL thành các giai đoạn:
+ ADPL trong thủ tục giải quyết án hình sự sơ thẩm;
+ ADPL trong thủ tục giải quyết án hình sự phúc thẩm;
+ ADPL trong thủ tục thi hành bản án và quyết định của Tòa án.
Dựa trên tiêu chí phân đoạn trong quá trình giải quyết án hình sự có thể phân chia ADPL thành các giai đoạn:
Có thể bạn quan tâm!
- Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa - 3
- Khái Niệm, Đặc Điểm, Các Giai Đoạn Áp Dụng Pháp Luật Hình Sự Của Tòa Án Nhân Dân
- Các Giai Đoạn Áp Dụng Pháp Luật Hình Sự Của Tòa Án Nhân Dân
- Áp Dụng Pháp Luật Trong Giai Đoạn Xét Xử Phúc Thẩm
- Áp Dụng Pháp Luật Của Tòa Án Trong Giai Đoạn Giám Đốc Thẩm, Tái Thẩm Các Vụ Án Hình Sự
- Vai Trò Áp Dụng Pháp Luật Hình Sự Của Tòa Án Nhân Dân
Xem toàn bộ 151 trang tài liệu này.
+ ADPL giai đoạn chuẩn bị xét xử;
+ ADPL trong giai đoạn xét xử;
+ ADPL sau giai đoạn xét xử.
Việc phân chia ADPL trong hoạt động giải quyết án hình sự nói chung mang tính chất tương đối và chỉ có ý nghĩa trong việc nghiên cứu khoa học. Trên thực tế, các dạng, loại hình ADPL trong quá trình giải quyết án hình sự thường đan xen lẫn nhau, chẳng hạn trong giai đoạn sơ thẩm hay phúc thẩm có cả việc ADPL nội dung và ADPL hình thức. Có thể nói rằng giải quyết án hình sự có nhiều khái niệm phân đoạn khác nhau, nhưng khái niệm hay phân đoạn nào thì tùy theo góc độ nghiên cứu nhưng phải tựu chung là hoạt động ADPL của TAND mang tính cụ thể cao, không mang tính trừu tượng mà mang tính hiện thực thông qua hành vi pháp lý thực tiễn và mỗi văn bản ADPL.
Tuy có nhiều cách tiếp cận các giai đoạn ADPL trong giải quyết hình sự của TAND, như cách tiếp cận theo trình tự thủ tục tố tụng, cách tiếp cận theo thẩm quyền áp dụng, nhưng nói chung các cách tiếp cận đó đều có những hạn chế nhất định. Trên thực tế thì các giai đoạn ADPL trong giải quyết án hình sự của TAND thường kết hợp theo nhiều tiêu chí, phổ biến là chia theo các giai đoạn giải quyết vụ án, thành các khâu xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, ra quyết định thi hành án, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án đã có hiệu lực pháp luật. Để thực hiện mỗi khâu đó thường có giai đoạn chuẩn bị trước khi tiến hành giải quyết.
1.2.3.1. Giai đoạn xét xử sơ thẩm
Giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm:
Giai đoạn chuẩn bị xét xử là thời gian từ khi Tòa án nhận hồ sơ vụ án (thụ lý vụ án) đến trước ngày khai mạc phiên tòa. Trong giai đoạn này thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải nghiên cứu hồ sơ vụ án và chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đưa vụ án ra xét xử theo đúng thời hạn luật định, nếu không thuộc trường hợp phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Việc xét xử tại phiên tòa tốt hay không phụ thuộc nhiều vào công tác chuẩn bị trước phiên tòa. Hội đồng xét xử nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án, dự
kiến các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa, chuẩn bị nội dung cần thẩm vấn, tranh tụng tại phiên tòa, ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, đề nghị lãnh đạo quyết định áp dụng hoặc thay đổi biện pháp ngăn chặn, giấy triệu tập, giấy mời những người tham gia tố tụng…, chuẩn bị các công việc cần thiết cho việc mở phiên tòa.
Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án không chỉ để ra một trong các quyết định theo quy định tại khoản 2 Điều 176 BLTTHS năm 2003 mà còn phát hiện những vi phạm tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, những tình tiết của vụ án cần phải làm sáng tỏ và cũng là những tài liệu quan trọng được sử dụng trong quá trình xét xử vụ án. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, trước tiên chủ tọa cần phải xem xét vụ án có thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án mình phải giải quyết không? Các thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra truy tố có đúng pháp luật không? Các tài liệu chứng cứ của vụ án có thu thập đúng trình tự tố tụng luật định không? Đây là quá trình thẩm phán kiểm tra tính khách quan, hợp pháp của nguồn chứng cứ, kiểm tra đã thu thập đầy đủ chứng cứ chưa? Nội dung vụ án được kết luận điều tra và cáo trạng phản ánh thế nào? Tài liệu về khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lời khai của bị can, bị hại, nhân chứng, vật chứng... phù hợp hay mâu thuẫn với nhau, tập trung nghiên cứu các mặt khách quan, chủ quan, khách thể, chủ thể, xem xét việc có tội phạm xảy ra trên thực tế hay không? Dấu hiệu cấu thành loại tội danh cụ thể nào? Bị can có thực hiện hành vi như cáo trạng truy tố? Các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ được phản ánh trong hồ sơ. Qua đó thẩm phán có thể nắm bắt được nội dung của vụ án, hiểu được bản chất của vụ án, để có những thông tin cần thiết và dự liệu trước các tình huống tại phiên tòa.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ, thẩm phán phải trả lời được câu hỏi vụ án có đủ căn cứ để đưa ra xét xử được không? Nếu xét thấy vụ án có đủ căn cứ để đưa ra xét xử được thì ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, lên kế hoạch tổ chức phiên tòa và thực hiện các việc cần thiết để mở phiên tòa, chuẩn bị những vấn đề cần làm sáng tỏ tại phiên tòa, xác định những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, mời hoặc triệu tập họ tham dự, riêng quyết định đưa vụ án
ra xét xử phải giao cho bị cáo chậm nhất là 10 ngày trước khi xét xử, giải quyết một số các khiếu nại, yêu cầu của người tham gia tố tụng thuộc nội dung chuẩn bị cho phiên tòa.
Tuy không phải là giai đoạn quyết định những vấn đề quan trọng của vụ án, nhưng giai đoạn chuẩn bị xét xử đòi hỏi Hội đồng xét xử, đặc biệt là thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải đầu tư thời gian, trí tuệ nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, giúp Hội đồng xét xử chủ động hơn tại phiên tòa cũng như chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết để tổ chức phiên tòa đạt được kết quả cao.
Trong giai đoạn xét xử tại phiên tòa sơ thẩm:
Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong việc ADPL hình sự của TAND. Nội dung vụ án được làm sáng tỏ tại phiên tòa, thẩm tra công khai những tài liệu chứng cứ thu thập trong quá trình điều tra, truy tố cũng như chứng cứ mới tại phiên tòa. Giai đoạn này được tiến hành gồm các bước: Thủ tục bắt đầu phiên tòa; xét hỏi tại phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa; nghị án và tuyên án.
Thủ tục bắt đầu phiên tòa, chủ tọa tuyên bố khai mạc phiên tòa, kiểm tra sự có mặt của những người tham gia tố tụng, kiểm tra căn cước của bị cáo như khai rò họ tên, ngày tháng năm sinh, họ tên bố mẹ, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, tiền án, tiền sự, ngày bị tạm giữ, tạm giam, đã nhận được cáo trạng và quyết định đưa vụ án ra xét xử khi nào, nếu lời khai của bị cáo khác với tài liệu có trong hồ sơ thì phải làm rò tại sao lại khác nhau. Cùng với sự kiểm tra căn cước của bị cáo, Hội đồng xét xử phải kiểm tra và xác định tư cách của những người tham gia tố tụng khác, như người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp, nhân chứng, luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị cáo, luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị hại, giám định viên, phiên dịch...
Chủ tọa phiên tòa phải giải thích quyền và nghĩa vụ cho những người tham gia tố tụng, thông báo nội quy phiên tòa để những người tham gia, tham dự phiên tòa thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Trường hợp có người
đề nghị hoãn phiên tòa, triệu tập thêm nhân chứng, thay đổi người tiến hành tố tụng thì Hội đồng xét xử phải xem xét và quyết định ngay tại phiên tòa.
Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa:
Xét hỏi là một bước quan trọng trong quá trình xét xử tại phiên tòa, là việc thẩm vấn công khai bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa, trước sự có mặt, chứng kiến của đông đủ những người tham gia tố tụng, tiến hành tố tụng và người tham dự phiên tòa, nhằm kiểm tra các chứng cứ, làm sáng tỏ mọi tình tiết của vụ án, trên cơ sở đó Hội đồng xét xử xác định có tội phạm xảy ra hay không, có đúng bị cáo thực hiện hành vi phạm tội như Viện kiểm sát truy tố hay không. Vì vậy khi xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải dựa trên các yếu tố cấu thành tội phạm, để đặt câu hỏi đối với bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, nhằm xác định rò các mặt khách quan, chủ quan, khách thể, chủ thể của tội phạm.
- Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ra bên ngoài bằng các hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội, cũng như các yếu tố khách quan khác như: Thời gian, địa điểm, điều kiện, hoàn cảnh, công cụ, phương tiện phạm tội… được xem là dấu hiệu bắt buộc để định tội. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là xử sự cụ thể của con người được thể hiện ra thế giới khách quan dưới những hình thức nhất định (hành động hoặc không hành động), xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm một cách trái pháp luật các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng đều phải có những biểu hiện ra bên ngoài, nếu không có biểu hiện ra bên ngoài thì không có những yếu tố khác của tội phạm và do vậy cũng không có tội phạm xảy ra.
- Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại.
- Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.
- Mặt chủ quan của tội phạm là những biểu hiện tâm lý bên trong của tội phạm, bao gồm lỗi, mục đích, động cơ, trong đó lỗi là dấu hiệu không thể thiếu được của bất cứ cấu thành tội phạm nào. Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi, nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Theo luật hình sự Việt Nam thì bất cứ hành vi phạm tội nào dù ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng cũng đều là thể thống nhất giữa mặt khách quan và chủ quan giữa những biểu hiện bên ngoài và những quan hệ tâm lý bên trong, đều là hoạt động của con người cụ thể, xâm hại hoặc nhằm xâm hại những quan hệ xã hội nhất định. Sự thống nhất của bốn yếu tố này là hình thức cấu trúc, thể hiện đầy đủ nội dung chính trị, xã hội của tội phạm. Mỗi yếu tố chỉ có ý nghĩa độc lập khi nghiên cứu nó về mặt lí thuyết. Trong thực tế, mỗi yếu tố chỉ tồn tại với tư cách là một bộ phận cấu thành của thể thống nhất là tội phạm. Thiếu bất kỳ yếu tố nào cũng không cấu thành tội phạm. Tất cả các trường hợp phạm tội của loại tội nhất định đều có những biểu hiện nội dung giống nhau ở cả bốn yếu tố. Những biểu hiện giống nhau đó được coi là những dấu hiệu đặc trưng của loại tội nhất định, được gọi là cấu thành tội phạm.
Như vậy, "cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự" [63, tr. 53].
Vì vậy, tại phiên tòa hình sự nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất của Hội đồng xét xử là xác định tội danh với mỗi bị cáo, xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội của bị cáo đã thực hiện có phù hợp với mô hình pháp lý của một tội nào đó trong BLHS hay không? Muốn làm được điều đó, Hội đồng xét xử phải nắm rò các dấu hiệu pháp lý quy định ở phần chung cũng như các dấu hiệu pháp lý đối với từng loại tội phạm cụ thể, để đặt câu hỏi xem xét hành vi thực tế của bị cáo đã thực hiện có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm
không, cấu thành tội gì? Tình tiết định khung? Gồm bao nhiêu tình tiết giảm nhẹ tại Điều 46 BLHS năm 1999, bao nhiêu tình tiết tăng nặng tại Điều 48 BLHS năm 1999. Mặt khác trong thực tế, tội phạm có thể được thực hiện do một người có thể do nhiều người cùng thực hiện, thì Hội đồng xét xử tại phiên tòa phải làm rò có việc đồng phạm không, vai trò đồng phạm của từng bị cáo mới có cơ sở để xác định trách nhiệm hình sự của mỗi bị cáo. Hoặc các trường hợp tội phạm cố ý có thể dừng lại ở giai đoạn nào đó, như: Giai đoạn chuẩn bị phạm tội - Điều 17 BLHS năm 1999, phạm tội chưa đạt - điều 18 BLHS năm 1999, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội - Điều 19 BLHS năm 1999, tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải đặt những câu hỏi để xác định bị cáo đã dừng thực hiện hành vi phạm tội ở giai đoạn nào? Vì lý do khách quan hay chủ quan? Cũng tại phiên tòa Hội đồng xét xử phải xem xét hành vi nguy hiểm cho xã hội của bị cáo có thuộc trường hợp phòng vệ chính đáng - Điều 15 BLHS năm 1999, hay tình thế cấp thiết - Điều 16 BLHS năm 1999 không? Xác định độ tuổi của bị cáo, bị hại, năng lực chịu trách nhiệm hình sự của mỗi bị cáo. Lỗi vô ý hay cố ý, cố ý gián tiếp hay cố ý trực tiếp, có lỗi hỗn hợp hay không (bị hại có lỗi hay không). Quá trình tiến hành xét xử luôn đòi hỏi mỗi thành viên Hội đồng xét xử phải có tư duy và lập luận sắc xảo, có phương pháp xét hỏi, chuyên môn cao và những kiến thức xã hội sâu rộng mới có thể xác định chính xác tội danh của bị cáo.
Việc xét xử phải được tiến hành liên tục từ khi khai mạc cho đến khi tuyên án trừ giờ nghỉ và thời gian cần thiết để nghị án. Xét xử được tiến hành trực tiếp bằng lời nói tại phiên tòa công khai với sự có mặt đầy đủ của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và người tham dự phiên tòa. Hội đồng xét xử phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và nghe ý kiến của bị cáo, bị hại, nhân chứng, xem xét vật chứng….chỉ được căn cứ vào những chứng cứ được thẩm tra công khai tại phiên tòa để định tội đối với bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử phải xem xét tất cả các chứng cứ có trong hồ sơ cũng như chứng cứ mới xuất trình tại phiên tòa một cách công khai,
khách quan, toàn diện, không phụ thuộc quá nhiều vào kết luận điều tra hay cáo trạng để xác định sự thật của vụ án.
Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy việc xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa chủ yếu nhằm mục đích chứng minh bị cáo có tội hay không, nếu có tội là tội danh cụ thể nào trong BLHS. Việc xét hỏi của Hội đồng xét xử phải thể hiện tính khách quan, dân chủ, tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, chỉ hỏi những vấn đề liên quan đến vụ án. Khi xét hỏi chủ tọa là người hỏi trước rồi đến các hội thẩm, sau đó đến kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Thường chủ tọa chỉ đặt câu hỏi mang tính nêu những vấn đề của vụ án cần phải làm rò, để luật sư và kiểm sát viên tranh luận với nhau. Hội đồng xét xử có vai trò như người trọng tài, lắng nghe tranh luận của hai bên về chứng cứ, lập luận buộc tội và gỡ tội cũng như lắng nghe ý kiến của những người tham gia tố tụng khác. Để phân tích, tổng hợp, đánh giá quan điểm buộc tội hay gỡ tội có tính thuyết phục hơn.
Về bản chất, tranh luận tại phiên tòa là quá trình cọ xát các quan điểm, lập luận về vụ án giữa kiểm sát viên duy trì quyền công tố với bị cáo, luật sư bào chữa cho quyền lợi của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác... Nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Do đó, việc xét xử một vụ án hình sự có dân chủ, khách quan hay không, bản án có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, có tính thuyết phục cao hay không phụ thuộc rất nhiều vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị khẳng định:
Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… Khi xét xử Tòa án phải đảm bảo cho công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật; Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh