được thực hiện thông qua những cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền (hoặc được nhà nước trao quyền) theo thủ tục, trình tự do pháp luật quy định nhằm cá biệt hóa những qui phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, cơ quan và tổ chức cụ thể.
Như vậy, ADPL là hình thức thực hiện pháp luật đặc thù, do cơ quan nhà nước, công chức nhà nước được trao quyền tiến hành theo một thủ tục do pháp luật quy định; nhằm thực hiện các biện pháp cưỡng chế khi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc hành vi phạm tội; khi phải giải quyết các tranh chấp về quyền chủ thể và các nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể trong một quan hệ pháp luật nhất định; hoặc khi Nhà nước thấy cần phải can thiệp, cần phải tham gia để bảo đảm việc thực thi trên thực tế của các chủ thể trên các lĩnh vực của đời sống xã hội theo quy định của pháp luật.
Các trường hợp ADPL nêu trên luôn luôn tồn tại trong hiện thực của đời sống xã hội, tuy nhiên trong các trường hợp trên chỉ có trường hợp thứ nhất là chứa đựng nội dung hoạt động giải quyết án hình sự của TAND mà luận văn này đề cập và nghiên cứu.
1.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật vừa là hình thức thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước hoặc công chức có thẩm quyền vừa là cách thức Nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện pháp luật. Vì vậy ADPL có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, ADPL là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước, cụ thể là:
Áp dụng pháp luật về nguyên tắc chỉ do cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành. Mỗi cơ quan nhà nước hay nhà chức trách trong phạm vi thẩm quyền được tiến hành những hoạt động ADPL nhất định, hay các cơ quan nhà nước khác nhau có thẩm quyền ADPL khác nhau.Ví dụ: Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền truy tố bị can; TAND có thẩm quyền xét xử.
Trong quá trình ADPL mọi khía cạnh, mọi tình tiết đều phải được xem xét cẩn trọng và dựa trên cơ sở các quy định, yêu cầu của quy phạm pháp luật đã được xác định để ra quyết định cụ thể. Như vậy, pháp luật là cơ sở để các cơ quan nhà nước có quyền ADPL thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình
Trong quá trình ADPL, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước phải xem xét, phân tích, đánh giá toàn diện, khách quan mọi khía cạnh tình tiết của sự việc, sau đó căn cứ vào các yêu cầu của quy phạm pháp luật thực định để ra quyết định ADPL cụ thể. Vì vậy, pháp luật là cơ sở để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ADPL thực hiện chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
Áp dụng pháp luật là sự tiếp tục thể hiện ý chí của Nhà nước trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội. Vì vậy, ADPL không chỉ căn cứ vào quy định của pháp luật thực định mà trong chừng mực nhất định còn mang cả tính chính trị, việc ADPL phải phù hợp với chủ trương, chính sách của Nhà nước trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Ví dụ, các vụ án về hành vi mua bán, tàng trữ pháo nổ thường được đưa ra xử trước tết nguyên đán với hình phạt rất nghiêm khắc để phục vụ cho chủ trương cấm đốt pháo nổ của Nhà nước.
Có thể bạn quan tâm!
- Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa - 1
- Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa - 2
- Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa - 3
- Các Giai Đoạn Áp Dụng Pháp Luật Hình Sự Của Tòa Án Nhân Dân
- Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa - 6
- Áp Dụng Pháp Luật Trong Giai Đoạn Xét Xử Phúc Thẩm
Xem toàn bộ 151 trang tài liệu này.
Áp dụng pháp luật được tiến hành chủ yếu theo ý chí đơn phương của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hầu như không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị ADPL. Sự áp dụng này có tính bắt buộc đối với chủ thể bị ADPL, được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế nhà nước.
Thứ hai, ADPL là hoạt động phải tuân theo thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
Do tính chất quan trọng và phức tạp của hoạt động ADPL, chủ thể bị ADPL có thể được hưởng những lợi ích rất lớn hoặc có thể phải chịu những hậu quả pháp lý rất nghiêm trọng. Nên trong các văn bản pháp luật luôn quy định rò cơ sở, điều kiện, trình tự thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình ADPL. Thủ tục đơn giản hay phức tạp phụ thuộc vào tính chất, mức
độ quan trọng của việc ADPL. Ví dụ: Cảnh sát giao thông xử phạt người điều khiển xe máy vượt đèn đỏ, thì thủ tục xử phạt hành chính này rất đơn giản. Còn xử phạt đối người phạm tội thì trình tự thủ tục tố tụng rất chặt chẽ, phải qua các khâu điều tra, truy tố, xét xử, với sự tham gia của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, bảo đảm cho việc ADPL chính xác hơn.
Thứ ba, hoạt động ADPL là hoạt động điều chỉnh có tính chất cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã hội nhất định. Đối tượng của hoạt động ADPL là những quan hệ cần đến sự điều chỉnh cá biệt trên cơ sở những mệnh lệnh chung trong quy phạm pháp luật. Bằng hoạt động ADPL những quy phạm pháp luật nhất định được cá biệt hóa vào trong những trường hợp cụ thể của đời sống xã hội. Ví dụ, công dân A cố ý gây thương tích cho công dân B, thì thông qua quá trình điều tra, truy tố, xét xử các cơ quan ADPL căn cứ vào các quy phạm pháp luật cụ thể của BLHS để áp dụng tội danh cố ý gây thương tích và hình phạt tương xứng đối với công dân A.
Thứ tư, ADPL là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo. Bởi ADPL là một hình thức quan trọng đưa các quy phạm pháp luật trên giấy vào điều chỉnh các quan hệ cụ thể của đời sống xã hội. Các tình huống trong thực tiễn thì rất đa dạng, phong phú. Vì vậy, đòi hỏi người có thẩm quyền ADPL phải nghiên cứu kỹ lưỡng, phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện sự việc, làm sáng tỏ các cấu thành pháp lý của nó để lựa chọn các quy phạm, ra văn bản ADPL và tổ chức thi hành. Ví dụ, khi xét xử một vụ án hình sự, đòi hỏi người thẩm phán phải nghiên cứu vụ án một cách toàn diện, đánh giá các chứng cứ, thẩm vấn, tranh tụng…, để làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội phạm, thuộc tội danh nào theo quy định của BLHS và ra bản án áp dụng hình phạt tương xứng cho bị cáo có tội. Quá trình này đòi hỏi người thẩm phán phải có một tư duy logic, sáng tạo trong việc ADPL.
Trong trường hợp pháp luật chưa có quy định hoặc quy định chưa rò ràng nhưng đòi hỏi người ADPL phải giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra, thì phải vận dụng một cách sáng tạo bằng cách ADPL tương tự, như án lệ,
tập quán tiến bộ, lẽ công bằng ở đời… Người ADPL không thể máy móc, dập khuôn mà phải có sự ADPL một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn. Người ADPL cần phải có ý thức pháp luật cao, trình độ chuyên môn cao, nắm vững nguyên tắc pháp luật chung, cũng như pháp luật chuyên ngành, có tri thức tổng hợp, kinh nghiệm phong phú, có đạo đức nghề nghiệp, thật sự công tâm.
Kết quả ADPL chủ yếu được thể hiện bằng các văn bản ADPL, là văn bản pháp lý cá biệt mang tính quyền lực do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức xã hội được Nhà nước trao quyền ban hành trên cơ sở những quy phạm pháp luật, nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của cá nhân, tổ chức hoặc xác định trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, CÁC GIAI ĐOẠN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.2.1. Khái niệm áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân
Áp dụng pháp luật hình sự của TAND trước hết là một hoạt động ADPL, nên nó có đầy đủ những đặc điểm chung của hoạt động ADPL nói chung, đồng thời có tính đặc thù riêng của hoạt động ADPL hình sự do Tòa án áp dụng. Đó là những quy phạm pháp luật có những chế tài mạnh nhất, ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, quyền sở hữu tài sản của con người, việc duy trì trật tự công cộng và chỉ duy nhất Tòa án có quyền áp dụng.
Khi có sự kiện pháp luật hình sự, sẽ phát sinh quan hệ pháp luật hình sự và quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, khi đó hoạt động giải quyết án hình sự được bắt đầu bằng việc khởi tố vụ án hình sự, tiến hành các hoạt động điều tra, thông qua kết quả của hoạt động điều tra, Viện kiểm sát tiến hành hoạt động truy tố, sau khi Viện kiểm sát truy tố, Tòa án tiến hành hoạt động xét xử. Các cơ quan trên khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định
của BLTTHS. Cụ thể khi tội phạm xảy ra, việc giải quyết vụ án phải trải qua nhiều giai đoạn và do các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau thực hiện, nhằm xác định chính xác sự thật vụ án, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ án từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử và thi hành án hình sự, được gọi là quá trình tố tụng hình sự.
Theo định nghĩa của giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội thì: Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật.
BLTTHS năm 2003 chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành các giai đoạn bao gồm: Giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự; giai đoạn truy tố; giai đoạn xét xử vụ án hình sự (sơ thẩm; phúc thẩm) và giai đoạn thi hành bản án hình sự. Đối với hoạt động giám đốc thẩm và tái thẩm không phải là các giai đoạn tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự mà các thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại những bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật.
Hoạt động giải quyết án hình sự của TAND là một giai đoạn trong toàn bộ quá trình giải quyết án hình sự. Khác với hoạt động giải quyết các loại án khác như án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, các hoạt động giải quyết loại án này của Tòa án là hoạt động độc lập từ khi tiếp nhận đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu làm phát sinh quan hệ tố tụng, Tòa án là cơ quan chủ động trong các hoạt động tố tụng dựa trên chứng cứ các bên đương sự xuất trình hoặc có được do điều tra khi cần thiết, để đưa ra quyết định trên cơ sở pháp luật. Còn giải quyết án hình sự của Tòa án chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp sau điều tra, truy tố. Xét xử là đặc trưng của việc giải quyết án của Tòa án, thực chất là hoạt động ADPL hình sự chủ yếu của Tòa án.Vì sau khi tiếp nhân hồ sơ từ Viện kiểm sát, Tòa án tiến hành các thủ tục tố tụng cần thiết như: áp dụng, thay đổi biện pháp ngăn chặn, quyết định đưa vụ án ra xét xử…nhưng
vấn đề quan trọng nhất của vụ án hình sự là xác định tội danh và quyết định hình phạt đều được giải quyết thông qua phiên tòa xét xử hình sự.
Áp dụng BLHS là ADPL nội dung, áp dụng BLTTHS là ADPL hình thức của hoạt động giải quyết án hình sự. Hoạt động tố tụng hình sự chứa đựng cả áp dụng quy phạm pháp luật nội dung và quy phạm pháp luật hình thức với mục đích bảo đảm áp dụng BLHS chính xác. Hoạt động đó bao gồm những bước đi theo trình tự tố tụng chặt chẽ, là tiền đề quan trọng để quyết định chính xác trách nhiệm hình sự nhằm bảo đảm nguyên tắc khách quan, công bằng, tạo ảnh hưởng tích cực trong việc trừng trị kết hợp giáo dục, cải tạo người phạm tội thành công dân có ích cho xã hội, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Vì vậy, ADPL hình sự của Tòa án là một hình thức ADPL do Tòa án tiến hành, áp dụng quy phạm pháp luật tố tụng hình sự và quy phạm pháp luật hình sự để giải quyết các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền và thực hiện một số nhiệm vụ trong giai đoạn thi hành án hình sự.
1.2.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân
ADPL hình sự của TAND là hoạt động xác định sự thật khách quan của một vụ án cụ thể nhằm áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự đối với người phạm tội, đây là hoạt động đặc biệt trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Quá trình ADPL phải tuân theo những nguyên tắc chung và quy trình chung, bên cạnh đó nó mang những đặc điểm riêng biệt, gồm các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, ADPL trong hoạt động giải quyết án hình sự là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước, do Tòa án tiến hành được thực hiện bởi người có thẩm quyền mà chủ yếu là Hội đồng xét xử.
Tòa án là cơ quan duy nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam có thẩm quyền xét xử. Tại Điều 127 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án địa phương địa phương, các Tòa án quân sự và các
Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [41]. Quá trình giải quyết vụ án hình sự bao gồm nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau, do các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành, trong đó hoạt động tiến hành tố tụng của Tòa án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thông qua phiên tòa xét xử công khai, mọi kết quả điều tra, truy tố, các chứng cứ buộc tội, gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, được thẩm vấn, đối chất, tranh luận, làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án tại phiên tòa. Trên cơ sở đánh giá toàn diện vụ án, Hội đồng xét xử đưa ra phán quyết mang tính quyền lực nhà nước. Chỉ có Hội đồng xét xử nhân danh nhà nước mới có quyền quyết định một người có tội hay không, tội danh được quy định tại điều khoản nào của BLHS và buộc người phạm tội phải chịu hình phạt tương xứng, đồng thời minh oan cho người không phạm tội bị truy tố. Vì vậy hoạt động ADPL của Hội đồng xét xử là trọng tâm của hoạt động tố tụng hình sự. Các giai đoạn tố tụng trước khi xét xử cũng như tại phiên tòa đều nhằm giúp cho Hội đồng xét xử đưa ra một phán quyết chính xác, đúng pháp luật.
Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự không chỉ tuân thủ những nguyên tắc trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước mà còn phải tuân thủ các nguyên tắc đặc thù do pháp luật hình sự, tố tụng hình sự quy định. Đó là các nguyên tắc: nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc xét xử công khai, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, nguyên tắc hai cấp xét xử, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án…, có triệt để tuân thủ các nguyên tắc trên thì hoạt động tố tụng mới đảm bảo khách quan, công bằng.
Chủ thể trực tiếp ADPL trong hoạt động xét xử bao giờ cũng là Hội đồng xét xử án hình sự. Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Điều 185 BLTTHS năm 2003 quy định: "Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân. Trong trường
hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì thành phần Hội đồng xét xử gồm 2 thẩm phán và 3 hội thẩm nhân dân" [45]. Các quyết định của Hội đồng xét xử hình sự sơ thẩm, chủ yếu là bản án hình sự sơ thẩm và sau khi tuyên án (ban hành) một thời gian nhất định, hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mới có hiệu lực pháp luật.
Điều 244 BLTTHS năm 2003 quy định: "Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm 3 thẩm phán trong trường hợp cần thiết có thêm 2 Hội thẩm" [45]. Quyết định của Hội đồng xét xử phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án.
Theo quy định tại Điều 15, 16, 17 BLTTHS năm 2003 thì khi xét xử thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán, Hội đồng xét xử cả sơ thẩm và phúc thẩm đều thảo luận và quyết định theo đa số. Vì vậy quyết định của Hội đồng xét xử là quyết định mang tính tập thể của đa số thành viên Hội đồng xét xử.
Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án dựa trên kết quả điều tra, truy tố của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, nhưng hoạt động xét xử là một giai đoạn tố tụng độc lập. Không chỉ căn cứ vào tài liệu chứng cứ do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập mà Hội đồng xét xử còn căn cứ vào quá trình thẩm tra, thẩm vấn, tranh tụng tại phiên tòa để đưa ra các quyết định như: trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ vụ án, tuyên bố bị cáo vô tội hoặc có tội.
Tòa án thực hiện quyền lực nhà nước thông qua phiên tòa xét xử, mà kết quả của hoạt động xét xử là một bản án (một văn bản ADPL) do Hội đồng xét xử nhân danh nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tuyên bố, khẳng định một công dân có tội hay vô tội. Bản án là sự thể hiện ý chí, thái độ của Nhà nước đối với hành vi của bị cáo và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của bộ máy nhà nước. Hội đồng xét xử khi công bố bản án không nhân danh Hội đồng xét xử hay cơ quan Tòa án mà nhân danh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam để phán quyết. Nghĩa là Tòa án nhân danh Nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để phán xử người bị truy tố có tội hay không, tội danh