Áp dụng pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc trong thực tiễn xét xử của Tòa án - 12


"1. (Nội dung quy định hiện hành được giữ nguyên và thiết kế thành khoản 1 của Điều luật).

Khoản 2 (bổ sung): Thời hiệu khởi kiện thừa kế được bắt đầu lại trong các trường hợp sau:

a. Khi vợ, chồng có thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm bên sau cùng chết, thì thời hiệu khởi kiện thừa kế bắt đầu lại từ ngày di chúc chung có hiệu lực".

Quy định này không cản trở những người thừa kế khởi kiện sớm hơn để xin chia thừa kế phần di sản không được định đoạt trong di chúc chung; hoặc khởi kiện xin tòa án tuyên bố di chúc chung vô hiệu do di chúc không hợp pháp hoặc người thừa kế theo di chúc chung chết trước người lập di chúc, không có quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối quyền hưởng di sản; hoặc khởi kiện xin chia thừa kế theo quy định tại Điều 669 của Bộ luật này (thừa kế bắt buộc).

Thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là vấn đề phức tạp, có ý nghĩa pháp lý quan trọng đối với việc thực thi di chúc chung của vợ, chồng, đồng thời có ảnh hưởng đến nhiều vấn đề pháp lý khác, như thời hiệu khởi kiện thừa kế, quyền được hưởng di sản của những người thừa kế bắt buộc. Quy định của luật hiện hành về vấn đề này tỏ ra bất cập và chưa tính đến nhiều hệ quả pháp lý khác có liên quan, nhất là khi vợ, chồng lập nhiều di chúc khác nhau, gồm cả di chúc riêng của cá nhân và di chúc chung với người vợ hay người chồng khác (ví dụ người vợ hay người chồng sau trong trường hợp ly hôn hoặc do một bên chết trước).

Bởi vậy, việc sửa đổi, bổ sung điều luật này phải được xuất phát từ quan điểm mềm dẻo, tôn trọng quyền tự do lập di chúc của cá nhân, và phải đặt nó trong quan hệ tổng thể với các quy định khác có liên quan, như quy định về thời điểm mở thừa kế, thời điểm phát sinh quyền hưởng di sản của người thừa kế, quyền được hưởng di sản không phụ thuộc nội dung di chúc của những những người thừa kế bắt buộc của người để lại di sản…; đồng thời phải giải quyết


toàn diện các hệ quả pháp lý đặt ra của việc thừa nhận các thời điểm có hiệu lực khác nhau của di chúc chung, của di chúc sửa đổi, bổ sung di chúc chung và các di chúc khác của mỗi bên vợ hoặc chồng, thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong trường hợp có di chúc chung…, có tính đến những tính chất đặc thù của di chúc chung. Có như vậy mới khắc phục triệt để những bất cập của quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung trong Bộ luật Dân sự hiện hành.

3.5. Về Điều 669 của Bộ luật Dân sự: Cách tính 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.

Cách tính hai phần ba của một suất thừa kế chia theo pháp luật là tính trên cơ sở giá trị di sản gốc để chia thừa kế theo pháp luật và tổng giá trị di sản gốc đó được chia cho tổng số người thừa kế tại hàng thừa kế thứ nhất (Điều 676 Bộ luật Dân sự) có quyền hưởng, nhân với hai phần ba là phần di sản của người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc được hưởng. Cách xác định hai phần ba của suất thừa kế chia theo pháp luật là sự hạn chế quyền định đoạt của người lập di chúc và bảo vệ quyền của những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc theo quy định tại Điều 669 Bộ luật Dân sự.

Thứ nhất: Lấy tổng di sản gốc là phần di sản còn lại để chia thừa kế sau khi đã thanh toán toàn bộ nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại theo thứ tự ưu tiên thanh toán được quy định tại Điều 683 Bộ luật Dân sự (gồm mai tang phí cho người đó, các khoản cấp dưỡng còn thiếu, các khoản bồi thường thiệt hại về tính mạng,…). Phần di sản còn lại được hiểu là di sản để chia thừa kế và là phần di sản gốc đem chia cho những người thừa kế gốc tại hàng thừa kế thứ nhất có quyền hưởng, được bao nhiêu nhân với 2/3 của suất đó và người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc quy định tại Điều 669 Bộ luật Dân sự được hưởng phần đã được xác định theo cách tính này.

Áp dụng pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc trong thực tiễn xét xử của Tòa án - 12

Thứ hai: Những người thừa kế gốc tại hàng thừa kế thừa kế thứ nhất được hiểu là người thừa kế có tên trong hàng đó và có quyền hưởng di sản


thừa kế theo pháp luật. Người thừa kế gốc tại hàng thừa kế thứ nhất là những người thừa kế có quyền hưởng di sản. Nếu người có tên trong hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại Điều 676 Bộ luật Dân sự nhưng đã từ chối quyền hưởng di sản hoặc không có quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 643 Bộ luật Dân sự thì bị loại khỏi hàng thừa kế thứ nhất không phải là đối tượng để xác định một suất thừa kế chia theo pháp luật.

Nếu hiểu di sản gốc là phần di sản còn lại sau khi đã chia cho những người hưởng di sản theo di chúc và phần di sản dung vào việc thờ cúng đã giao cho người quản lý thì khi đó phần di sản mà người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc sẽ không thể xác định được vì di sản không còn để chia.

Vì những lý do trên Điều 669 Bộ luật Dân sự đã quy định những người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc được hiểu là nếu người chết không để lại di chúc thì di sản của người này được chia theo pháp luật, theo đó một suất thừa kế theo pháp luật được xác định. Nếu hiểu khác đi sẽ dẫn đến những sai sót, vi phạm lợi ích của người được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.

Ví dụ: Vợ chồng ông Xuân, bà Thu có hai người con chung là Văn Thành và Văn Chất. Ông Xuân qua đời để lại di chúc cho Văn Thành hưởng

½ di sản, cho Văn Chất hưởng ¼ di sản, truất quyền thừa kế của bà Thu vì hai vợ chồng có mâu thuẫn từ trước. Di sản của ông Xuân có 100.000.000 đồng.

Anh Văn Thành = 100.000.000 đồng: 2 = 50.000.000 đồng Anh Văn Chất = 100.000.000 đồng: 4 = 25.000.000 đồng

Nếu bà Thu được hưởng theo cách tính: 25.000.000 đồng (phần di sản ông Xuân không định đoạt theo di chúc, được đem chia theo pháp luật) chia cho ba, nhân với hai phần ba (25.000.000 đồng: 3 x 2/3 = 555.555.5,57 đồng). Cách tính này không đúng theo quy định tại Điều 669 Bộ luật Dân sự.

Theo tình huống trên và áp dụng đúng quy định tại Điều 669 Bộ luật Dân sự, bà Thu được hưởng: 100.000.000 đồng: 3 x 2/3 = 222.222.22,2 đồng.

Trong trường hợp này, bà Thu tuy bị ông Xuân truất quyền hưởng di sản nhưng bà Thu vẫn được hưởng 222.222.22,2 đồng mà không phải là 555.555.5,57 đồng theo cách tính sai do đã hiểu sai giá trị di sản thừa kế gốc.

Như vậy, giá trị di sản gốc để chia thừa kế theo pháp luật trong trường hợp xác định hai phần ba suất thừa kế chia theo pháp luật cho những người được hưởng không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, theo đó sự định đoạt di sản của người lập di chúc cho người thừa kế không làm giảm sút giá trị di sản thừa kế gốc.

Qua sự phân tích ở trên, thiết nghĩ để đảm bảo cách tính thống nhất khi áp dụng Điều 669 Bộ luật Dân sự, các nhà làm luật cần có hướng dẫn rò ràng cụ thể cách tính 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật để người dân có thể áp dụng thống nhất đúng đắn. Đây là điều cần thiết vì thực tế cuộc sống có rất nhiều trường hợp việc định đoạt di sản thừa kế của người lập di chúc bị chi phối bởi Điều 669 Bộ luật Dân sự.

3.6. Sự thống nhất giữa văn bản luật và văn bản hướng dẫn thực hiện luật

Bộ luật Dân sự năm 2005 đã hoàn thiện thêm những quy định về thừa kế. Chế định thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm 2005 đã có những quy định cụ thể và phù hợp hơn với đời sống thực tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên để đáp ứng hơn nữa sự phát triển chung của xã hội, những mối quan hệ thừa kế ngày càng phức tạp, thì chế định về thừa kế càng cần phải hoàn chỉnh hơn, việc hướng dẫn thực hiện luật cũng cần phải dễ hiểu và bám sát hơn các quy định của Bộ luật Dân sự, tránh tình trạng văn bản luật và văn bản hướng dẫn thực hiện luật đối kháng, mâu thuẫn với nhau.

Bên cạnh đó cần tổ chức đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn cho những người tiến hành tố tụng góp phần nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc.


KẾT LUẬN


Thừa kế theo di chúc đang ngày được hoàn thiện, là hành lang pháp lý quan trọng để người dân tự do thể hiện ý chí định đoạt tài sản của mình sau khi chết.

Quyền thừa kế của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay không ngừng được củng cố, mở rộng và được bảo vệ theo các nguyên tắc nhất quán là tôn trọng ý chí của công dân trong việc định đoạt tài sản của mình cho người thừa kế. Pháp luật cũng bảo vệ quyền của những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng trong việc định đoạt tài sản thừa kế. Là một trong những căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản của công dân, quyền thừa kế của công dân ở nước ta từ năm 1945 đến nay được pháp luật bảo đảm thực hiện ngày càng triệt để hơn. Tính nhất quán trong các quy định của pháp luật và các nguyên tắc pháp luật thừa kế ở Việt Nam theo tiến trình phát triển của pháp luật dân sự nói chung, của những quy định về quyền thừa kế của công dân Việt Nam nói riêng qua các thời kỳ phát triển đã và đang là động lực thúc đẩy sản xuất tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội mà ở đó quyền thừa kế của công dân được đảm bảo thực hiện cũng được xem là một trong những yếu tố quan trọng tạo ra điều kiện phát triển các quan hệ xã hội.

Với nhiệm vụ đặt ra là phân tích những quy định phù hợp, chưa phù hợp hoặc chưa đồng bộ của Bộ luật Dân sự với các quy định hướng dẫn thực hiện Luật; thống kê những tranh chấp, khó khăn vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc thừa kế. Qua đó đưa ra được những giải pháp hoàn thiện, học viên hy vọng luận văn phần nào đạt được mục đích. Việc áp dụng pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc trong thực tiễn xét xử của Tòa án cần được tổng kết, rút kinh nghiệm thường xuyên để tránh những sai sót, bất cập. Những quy định cần đi vào thực tế cuộc sống, từ thực tế mà được bổ sung, hoàn thiện hơn, như vậy mới linh hoạt và có tính ứng dụng cao.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Trần Hữu Biền và Đinh Văn Thanh (1995), Hỏi đáp về pháp luật thừa kế, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

2. Nguyễn Văn Cừ và Ngô Thị Hường (2002), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Nguyễn Ngọc Điện (1999), Một số suy nghĩ về thừa kế trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.

4. Nguyễn Ngọc Điện (2001), Bình luận khoa học về thừa kế trong Bộ luật Dân sự, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.

5. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2002), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

6. Tưởng Duy Lượng (2002), Một số vấn đề trong thực tiễn xét xử các tranh chấp về thừa kế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Quốc hội (1959), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.

8. Quốc hội (1986), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.

9. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.

10. Quốc hội (1995), Nghị quyết ngày 28/10 về việc thi hành Bộ luật Dân sự, Hà Nội.

11. Quốc hội (1995), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.

12. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.

13. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.

14. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

15. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.

16. Quốc hội (2004), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.

17. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.

18. Quốc hội (2005), Luật Nhà ở, Hà Nội.

19. Phùng Trung Tập (2003), "Về các quy định thừa kế theo pháp luật", Nhà nước và pháp luật, (6).

20. Phùng Trung Tập (2004), Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay, (Sách chuyên khảo), Nxb Tư pháp, Hà Nội.

21. Phùng Trung Tập (2004), "Những hạn chế và bất cập của các quy định về thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm 1995", Tòa án nhân dân, (4).

22. Phùng Trung Tập (2008), Luật thừa kế Việt Nam, (Sách chuyên khảo), Nxb Hà Nội, Hà Nội.

23. Phùng Trung Tập (2008), "Pháp luật thừa kế Việt Nam hiện đại - Một số vấn đề cần được bàn luận", Nhà nước và pháp luật, (7).

24. Tòa án nhân dân tối cao (1968), Thông tư số 594/NCPL ngày 27/8 hướng dẫn đường lối xét xử các việc tranh chấp về thừa kế, Hà Nội.

25. Tòa án nhân dân tối cao (1978), Thông tư số 60-TATC ngày 22/02 hướng dẫn giải quyết tranh chấp về hôn nhân và gia đình, Hà Nội.

26. Tòa án nhân dân tối cao (1981), Thông tư số 81/TATC ngày 24/71 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế, Hà Nội.

27. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật Hiến pháp, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

28. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

29. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

30. Nguyễn Minh Tuấn (2007), "Di sản thừa kế và thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế", Luật học, (11).

31. Phạm Văn Tuyết (2003), "Hoàn thiện quy định về thừa kế trong Bộ luật Dân sự", Luật học, (Đặc san về sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự).

32. Phạm Văn Tuyết (1995), "Di chúc và vấn đề hiệu lực của di chúc", Luật học, (6).

33. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1990), Pháp lệnh Thừa kế, Hà Nội.

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/06/2022