Doanh Nghiệp (Loại Hình Kinh Doanh, Cơ Cấu Tổ Chức, Văn Hóa Doanh Nghiệp)

kỳ hoạt động marketing nào đặc biệt là các quyết định marketing mix mà doanh nghiệp thực hiện đều diễn ra trong sự tương tác giữa môi trường và thị trường. Ở đó các tác động đến từ môi trường bên trong và bên ngoài doanh nghiệp là tất yếu” [66, tr.103]. Điều này cũng có nghĩa là sự thành công hay thất bại của một kế hoạch kinh doanh hay một chương trình marketing mix đều gắn liền với những tác động đến từ môi trường đó. Ở đây chính là môi trường marketing.

Môi trường này là tập hợp những yếu tố tác động nhiều chiều đến việc xây dựng và thực hiện các quyết định marketing mix của doanh nghiệp. Sau đây là một số yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến áp dụng marketing mix.

2.3.1. Kinh tế

Yếu tố này đề cập tới khuynh hướng phát triển của nền kinh tế và tác động tới hoạt động kinh doanh bảo hiểm.Tình hình kinh tế được thể hiện tập trung ở tốc độ phát triển kinh tế của một quốc gia. Có thể hiểu tốc độ phát triển kinh tế là sự tăng trưởng tự nhiên của nền kinh tế quốc gia hay của một vùng. Hiện nay, tốc độ phát triển này thường được đo lường bằng chỉ số tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Đó là tổng khối lượng (giá trị) hàng hóa và dịch vụ hàng năm được tạo ra của một nước. Tốc độ tăng trưởng GDP thể hiện khuynh hướng phát triển chung của nền kinh tế. Khi tốc độ tăng trường GDP giảm sút, thể hiện nền kinh tế đang vận động theo hướng tiêu cực. Trái lại, nếu tốc độ tăng trưởng GDP đạt mức cao báo hiệu nền kinh tế đang phát triển tích cực sẽ mở ra nhiều tiềm năng cho phát triển hoạt động marketing. Tốc độ phát triển kinh tế có ảnh hưởng lớn tới nhận thức và thu nhập của người tiêu dùng hoặc tác động đến sự sẵn sàng mua và khả năng mua bảo hiểm. Tăng trưởng kinh tế và lãi suất cũng ảnh hưởng đến doanh thu của ngành bảo hiểm. Tăng trưởng kinh tế tỷ lệ thuận với doanh thu của ngành bảo hiểm, còn lãi suất thì ảnh hưởng tới doanh nghiệp và tâm lý của khách hàng mua bảo hiểm.

Tình hình kinh tế diễn biến theo xu thế tích cực còn thể hiện ở các chỉ số lạm phát thấp, thuế không tăng, lãi suất giảm, tiết kiệm và giá cả ổn định. Vì vậy, thu nhập của người tiêu dùng có khả năng tăng lên. Nhà quản trị marketing phải nắm bắt được quy luật Ernst Engel khi thu nhập ròng (Thu nhập ròng là khoản thu nhập có được sau khi trừ thuế) và thu nhập khả dụng (Thu nhập khả dụng là khoản thu nhập có được sau khi trừ các khoản chi tiêu cần thiết) tăng lên thì khả năng chi tiêu và sẵn sàng mua bảo hiểm của khách hàng cũng tăng lên. Theo quy luật này, khi thu nhập tăng lên thì các khoản chi tiêu cho lương thực và thực phẩm giảm; chi tiêu cho việc nhà, hoạt động gia đình và quần áo không thay đổi hoặc tăng ít; trong khi đó chi tiêu cho các hoạt động giáo dục, mua bảo hiểm, giải trí, các hàng hóa xa xỉ phẩm tăng lên. Theo tâm lý khách

hàng, khi khoản thu nhập tăng lên, họ sẽ có xu hướng đầu tư vào những khoản bảo hiểm để phòng tránh rủi ro có thể xảy ra cho bản thân và các thành viên trong gia đình. Bên cạnh đó, với tình hình kinh tế phát triển tốt, doanh nghiệp bảo hiểm cũng có nhiều cơ hội để thực hiện các kế hoạch marketing bởi sẽ cho phép doanh nghiệp ổn định các loại chi phí phải bỏ ra như chí phí lao động, chi phí thuê văn phòng…và gia

tăng doanh số bán.

2.3.2. Chính trị, luật pháp và xã hội

Sự ổn định chính trị,luật pháp và xã hội cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới áp dụng marketinh mix, được các nhà kinh doanh bảo hiểm quan tâm. Hiện nay, Việt Nam đang từng bước hoàn thiện hệ thống chính trị, tạo cơ sở cho việc điều hành và quản lý xã hội tốt hơn.Việt Nam xác định tiếp tục phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước kiến tạo, cải cách thể chế theo hướng minh bạch, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo nhiều cơ hội cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và mở rộng thị trường kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam. Điều này chắc chắn sẽ tạo ra những hiệu ứng tích cực cho phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm.

Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua việc hoạch định các chính sách và các công cụ điều tiết. Luật pháp tác động đến ngành bảo hiểm bằng các cơ chế, chính sách, đòn bẩy tạo điều kiện cho lĩnh vực này phát triển, ngược lại cũng có thể gây khó khăn cho ngành bảo hiểm nếu luật pháp đề ra không thúc đẩy ngành bảo hiểm phát triển hay những chính sách sai lầm tạo khó khăn cho ngành kinh doanh bảo hiểm. Ở Việt Nam đã có một hệ thống luật pháp và chính sách tương đối hoàn chỉnh nhằm phát triển ngành bảo hiểm theo tiêu chuẩn quốc tế. Bộ Tài chính thực hiện việc giám sát các doanh nghiệp bảo hiểm trong hoạt động kinh doanh.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

Nhà quản trị marketing quan tâm tới luật pháp điều tiết trực tiếp hoạt động kinhdoanh bảo hiểm của nhà nước, bởi hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm được tiếnhành trong mối quan hệ giữa con người với nhau và chịu sự chi phối của hệ thống luậtpháp về kinh doanh bảo hiểm.

Cần phải nhấn mạnh rằng môi trường pháp lý ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinhdoanh bảo hiểm, trong đó có hoạt động marketing. Hiện nay, môi trường pháp lý chohoạt động kinh doanh bảo hiểm ngày càng được hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi chohoạt động kinh doanh, từng bước thiết lập và duy trì một thị trường cạnh tranh lànhmạnh, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Namđược ban hành vào năm 2000 và trải qua một lần sửa đổi vào năm 2010.

Áp dụng Marketing mix tại tổng công ty bảo hiểm Bảo Minh - 8

Bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý, nhà nước cũng đã cónhững chính sách ưu đãi, hỗ trợ các doanh nghiệp bảo hiểm như ưu đãi về thuế. Thị

trường bảo hiểm nhân thọ nhận ưu đãi về thuế theo luật thuế giá trị gia tăng, bảo hiểmnhân thọ không thuộc diện chịu thuế.

Yếu tố xã hội ảnh hưởng đến sự hình thành cầu trên thị trường bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm cũng như các thị trường khác do con người hợp lại mà thành, do vậy sự phát triển dân số và mật độ dân cư là vấn đề đầu tiên mà các nhà marketing bảo hiểm quan tâm. Những khu vực dân cư đông, tốc độ tăng dân số nhanh sẽ làm tăng nhu cầu tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ, trong đó có sản phẩm bảo hiểm, từ đó kéo theo sự phát triển của thị trường bảo hiểm. Ngoài ra, cơ cấu dân cư theo độ tuổi, nghề nghiệp, giới tính… cũng ảnh hưởng đến sự đa dạng, phong phú của cầu trên thị trường bảo hiểm. Nhu cầu về bảo hiểm còn tùy thuộc vào trình độ, truyền thống văn hóa, thói quen tiêu dùng của dân cư; sự phát triển các chính sách an sinh xã hội…Hiện nay, dân số Việt Nam đạt mức hơn 95 triệu người, cơ cấu dân số vàng là lực lượng tạo thu nhập trong tương lai, là đối tượng khai thác của các doanh nghiệp bảo hiểm trong thời gian tới. Điều kiện xã hội và nhân văn của Việt Nam cũng tương đối thuận lợi cho sự phát triển của thị trường bảo hiểm. Dù còn là một nước đang phát triển, nhưng các chính sách chăm sóc sức khỏe con người, an sinh xã hội được chú trọng. Và chính điều này tạo ra những ảnh hưởng tích cực cho kinh doanh bảo hiểm phát triển.

2.3.3. Công nghệ (cuộc cách mạng công nghiệp 4.0)

Ở phương diện áp dụng marketing mix, công nghệ phát triển tạo điều kiện cho nhân viên bán bảo hiểm sáng tạo và ứng dụng hiệu quả trong cách thức tổ chức, vận hành hoạt động marketing. Ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, các doanh nghiệp bảo hiểm không ngừng phát triển nhân sự phù hợp theo hướng cập nhật thông tin, gia tăng đầu tư, phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin. Việc tiếp cận và sử dụng công nghệ mới cho phép doanh nghiệp bảo hiểm nâng cấp phương tiện và cơ sở hạ tầng.

Các công cụ và kỹ thuật số hiện nay đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc cung cấp, hỗ trợ phương tiện cho áp dụng marketing mix. Các trang website, blog, mạng xã hội và các hiện diện số khác trở thành những phương tiện quan trọng trong các chiến lược xúc tiến trong marketing mix. Đối với một số đối tượng khách hàng, mạng internet là những phương tiện duy nhất giúp họ tiếp cận với sản phẩm. Vì vậy, các nhà quản trị marketing trong doanh nghiệp bảo hiểm cần chú ý không gian số, “đánh trúng” vào khách hàng tiềm năng. Các doanh nghiệp bảo hiểm không thể gây ấn tượng tốt với khách hàng nếu khách hàng phải trải nghiệm website nghèo nàn về nội dung, không ổn định về kỹ thuật… Những người phụ trách truyền thông trên phương tiện số phải áp dụng ngôn ngữ một cách linh hoạt, xây dựng nội dung mới, đa dạng và phối hợp chặt chẽ với bộ phận chăm sóc khách hàng.

2.3.4. Doanh nghiệp (loại hình kinh doanh, cơ cấu tổ chức, văn hóa doanh nghiệp)

Doanh nghiệp bảo hiểm là một thực thể kinh doanh và được coi là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đầu tiên tới các quyết định marketing. Sự ảnh hưởng của các yếu tố này thông qua các khía cạnh sau đây:

Thứ nhất, là tổ chức loại hình kinh doanh, tức là đề cập tới việc doanh nghiệp quyết định cung ứng cho thị trường loại sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ nào, xác định loại hình sở hữu thích hợp và định hướng các kế hoạch kinh doanh. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể quyết định cung cấp cho thị trường các sản phẩm bảo hiểm mà doanh nghiệp nhận thấy có tiềm năng phát triển; xác định loại hình sở hữu có thể là sở hữu của một cá nhân hoặc của một nhóm người hoặc của nhà nước. Định hướng kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm phương hướng kinh doanh, bán sản phẩm và những điều kiện cần thiết để doanh nghiệp hoạt động bình thường, hiệu quả. Xét ở phương diện tổng thể thì việc lựa chọn mô hình hoạt động kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định về sản phẩm trong hệ thống marketing mix của doanh nghiệp bảo hiểm.

Việc xác định các mục tiêu chung, còn gọi là xây dựng các mục tiêu kinh doanh cũng đa dạng tùy theo loại hình của sản phẩm bảo hiểm. Việc xác định các mục tiêu chung ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình xác định các mục tiêu marketing. Các doanh nghiệp bảo hiểm thường nhắm tới các mục tiêu chủ yếu như doanh số bán, lợi nhuận, sự tồn tại lâu dài trên thị trường và sự hài lòng của khách hàng. Trong đó, mục tiêu giành được sự chấp nhận của khách hàng là mục tiêu quan trọng bởi sẽ ảnh hưởng tới doanh số bán, lợi nhuận và sự tồn tại của doanh nghiệp.

Việc doanh nghiệp coi trọng vai trò của hoạt động marketing ở mực độ nào tùy thuộc vào loại hình kinh doanh, quy mô, cơ cấu tổ chức và khả năng hoạt động, phụ thuộc vào nhận thức và chiến lược của ban lãnh đạo. Tầm quan trọng của marketing trong doanh nghiệp bảo hiểm được thể hiện ở một số tiêu thức như việc bổ nhiệm người phụ trách; quyền hạn của bộ phận này trong việc ra quyết định và các nguồn lực dành cho hoạt động marketing; quy mô hoạt động và vị trí của bộ phận marketing trong mối tương quan với các bộ phận khác.

Thứ hai, cơ cấu tổ chức và vai trò của các bộ phận chức năng trong doanh nghiệp. Xét từ phương diện này, một môi trường marketing lý tưởng chỉ có thể xuất hiện một khi doanh nghiệp xác định rõ vai trò của các bộ phận chức năng và giữa chúng có sự phối hợp hoạt động đồng bộ, hỗ trợ tốt cho nhau. Trong một doanh nghiệp bảo hiểm thường có nhiều bộ phận chức năng dựa trên những nhiệm vụ và đặc điểm kinh doanh của ngành bảo hiểm. Khuynh hướng hiện nay, các doanh nghiệp bảo hiểm thường xây dựng một cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, có tính chuyên môn hóa cao để tăng hiệu quả. Thông

thường, các doanh nghiệp bảo hiểm thường bao gồm các phòng cơ bản như phòng tổ chức nhân sự và hành chính tổng hợp, phòng marketing, phòng dịch vụ khách hàng, phòng tính phí bảo hiểm, phòng chi trả bảo hiểm, phòng đánh giá rủi ro, phòng đầu tư nghiên cứu thị trường, phòng tài chính – kế toán. Doanh nghiệp nếu có một cơ cấu tổ chức hợp lý và xác định rõ vai trò của các bộ phận chức năng sẽ tạo cơ hội tốt cho việc xây dựng và thực hiện các quyết định marketing.

Thứ ba là đặc trưng quản lý và văn hóa doanh nghiệp. Sự lựa chọn loại hình quản lý và văn hóa doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn tới toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mô hình quản lý mà doanh nghiệp bảo hiểm lựa chọn được phản ảnh qua việc xác định vai trò của hoạt động marketing trong doanh nghiệp. Điều này cũng thể hiện thông qua hiệu quả thực hiện các quyết định marketing. Văn hóa doanh nghiệp cũng được hiểu như là yếu tố truyền thống của một doanh nghiệp được biểu hiện ở tinh thần đoàn kết, tương trợ và có trách nhiệm trong mọi công việc của doanh nghiệp hoặc các chế độ khuyến khích sáng kiến, đãi ngộ nhằm thúc đẩy nguồn nhân lực làm việc tốt hơn.

2.3.5. Khách hàng

Khách hàng được hiểu ngắn gọn nhất là người đã mua, đang mua và sẽ mua hàng của doanh nghiệp bảo hiểm, bởi vậy khách hàng luôn được coi là yếu tố quan trọng. Mong muốn, nhu cầu và quyết định mua của khách hàng quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp. Khách hàng có rất nhiều đặc điểm khác biệt mà doanh nghiệp cần biết như sở thích, nhu cầu, thói quen tiêu dùng, giới tính, tuổi tác, trình độ giáo dục, nghề nghiệp, thu nhập, mức độ mua… Doanh nghiệp bảo hiểm cần nghiên cứu, đánh giá, phân loại, nắm vững đặc điểm của từng nhóm khách hàng và tìm ra các giải pháp để thỏa mãn

nhu cầu của họ một cách tốt nhất.

Đối với khách hàng bảo hiểm, họ là những tổ chức và cá nhân thực hiện hoạt động ký kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí. Mỗi cá nhân hay tổ chức có thể tham gia kí kết nhiều loại hình bảo hiểm tạo nên tính quần chúng của bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm cũng định ra những tiêu chuẩn liên quan đến khách hàng như tư cách pháp nhân, hành vi và năng lực pháp lý… do khách hàng bảo hiểm và đối tượng bảo hiểm của khách hàng rất đa dạng và phức tạp, nguy cơ về rủi ro là rất khác nhau. Những tiêu chuẩn định ra giúp doanh nghiệp bảo hiểm có cơ sở đưa ra những quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận cho từng trường hợp cụ thể. Ngoài ra, đứng trước quyết định kí kết hợp đồng mua bảo hiểm, tâm lý của khách hàng diễn biến rất phức tạp và bị chi phối bởi nhiều yếu tố như sản phẩm có chất lượng tốt, dịch vụ thuận tiện, hấp dẫn và giá cả hợp lý hay không. Do đó, nghiên cứu khách hàng bảo hiểm là một trong những nội dung nghiên cứu quan trọng của doanh nghiệp bảo hiểm.

Đối tượng khách hàng của doanh nghiệp bảo hiểm thường được phân thành các nhóm sau: (1) Khách mua hàng cá nhân, (2) Nhóm khách hàng là các tổ chức kinh tế xã hội.

Đối với khách mua hàng cá nhân, do điều kiện kinh tế xã hội ngày càng phát triển, mức thu nhập và chất lượng đời sống ngày càng được cải thiện nên các cá nhân có nhu cầu tham gia bảo hiểm ngày càng đa dạng. Nhóm khách hàng này kỳ vọng bảo hiểm sẽ mang lại những lợi ích nhất định, do đó thường quan tâm đến giá cả và giá trị của sản phẩm. Khi gặp tổn thất hoặc thiệt hại khách hàng cá nhân mong muốn được giải quyết khiếu nại nhanh nhất, công bằng nhất.

Đối với nhóm khách hàng là các tổ chức kinh tế xã hội, nhóm này chủ yếu bao gồm các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và các đơn vị hành chính sự nghiệp. Nhóm này có nhu cầu bảo vệ, bồi thường trước những rủi ro, thiệt hại liên quan đến tài sản để ổn định kinh doanh, hoạt động của tập thể. Nhóm này thường là các khách hàng lớn, giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm cao, do đó cần được tư vấn chuyên môn về loại hình bảo hiểm, các vấn đề liên quan đến công tác hạn chế tổn thất. Các doanh nghiệp và tổ chức xã hội rất đa dạng về quy mô, lĩnh vực hoạt động, các nhà quản trị marketing bảo hiểm cũng cần dựa vào những tiêu chí này để tiến hành phân loại.

2.3.6. Quản trị rủi ro

Quản trị rủi ro trong doanh nghiệp bảo hiểm có tác động lớn tới hoạt động kinh doanh, trong đó có hoạt động marketing. Quản trị rủi ro là việc xác định được những nguy cơ trực tiếp và tiềm ẩn tác động tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, ở đây là các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm. Các nguy cơ này nếu không xác định được thì cơ hội xử lý sẽ khó diễn ra và kết quả là những thiệt hại cả về vật chất và tinh thần đối với doanh nghiệp là không tránh được. Các nguy cơ hay các rủi ro này có thể đến từ môi trường kinh doanh, tức là đến từ môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, đến từ khách hàng.... và có thể đến từ bên trong doanh nghiệp tức là đến từ sự yếu kém về khả năng tài chính, khả năng quản trị doanh nghiệp hay những yếu kém trong công tác tổ chức bộ máy, trong thể chế và quản trị nhân lực…

Trong kinh doanh bảo hiểm, rủi ro đến từ khách hàng bao gồm cả khách hàng cá nhân và khách hàng tổ chức mua bảo hiểm, đến từ sự thiếu minh bạch và kém hoàn thiện trong hệ thống luật kinh doanh bảo hiểm….. Điều lưu ý là những rủi ro đến từ các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm cũng rất đáng quan tâm. Sự yếu kém trong hoạt động nghiệp vụ như kết nối với khách hàng, xác định khách hàng mục tiêu, tìm kiếm khách hàng thủy chung…. đang là những thách thức mà các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm đang phải đối mặt. Bởi vậy, nhận diện những thách thức này để từ đó

có các giải pháp xử lý nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực là nhiệm vụ thiết yếu của các doanh nghiệp này

Quản trị rủi ro bao gồm ít nhất có 5 bước kết nối và quan hệ chặt chẽ với nhau đó là xây dựng kế hoạch quản trị rủi ro, nhận diện rủi ro, đo lường và phân tích rủi ro, xử lý rủi ro và báo cáo kết quả. Trong kinh doanh bảo hiểm hầu hết các doanh nghiệp đã đầu tư tài chính, nhân lực và cơ sở vật chất để xây dựng và thực hiện quản trị rủi ro có hiệu quả, bởi người ta nhận thức được những tác động nhiều chiều của quản trị rủi ro tới áp dụng marketing mix và quản trị doanh nghiệp.

2.3.7. Cạnh tranh

Môi trường cạnh tranh hay đối thủ cạnh tranh thường xuyên tác động tới chiến lược marketing của doanh nghiệp, ảnh hưởng lớn tới sự thành công hay thất bại của một quyết định marketing mix và đặc biệt là tác động tới việc lựa chọn và định vị một thị trường mục tiêu. Bởi vậy, cách tốt nhất để một doanh nghiệp có thể đối phó với những thách thức trong môi trường cạnh tranh là họ phải hiểu và xác định được các đặc điểm của môi trường này.

Thị trường kinh doanh bảo hiểm hiện nay diễn ra trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Trong thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập, cùng với hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài có mặt tại thị trường Việt Nam, nhiều văn phòng đại diện của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài như Great Eastern, HSBC, FWD. tạo ra sức ép cạnh tranh đối với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước. Để giành lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp bảo hiểm muốn tồn tại và phát triển phải hoạch định được một chiến lược marketing mix kết hợp với chiến lược cạnh tranh một cách đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với khả năng của doanh nghiệp và thực tế của thị trường.Đây cũng là vũ khí cạnh tranh có hiệu quả nhất nhằm giảm thiểu tác động xấu, nâng cao uy tín, chinh phục khách hàng và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường.

2.4. Kinh nghiệm áp dụng marketing mix tại một số doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam

2.4.1. Áp dụng marketing mix của một số doanh nghiệp bảo hiểm

2.4.1.1. Áp dụng marketing mix của doanh nghiệp bảo hiểm PVI

Hiện tại, PVI là doanh nghiệp bảo hiểm lớn thứ hai trên thị trường Việt Nam và chủ yếu kinh doanh về mảng bảo hiểm phi nhân thọ, đóng góp từ 70 – 90 % tổng doanh thu bảo hiểm của PVI [39]. Các lĩnh vực mà PVI đang chiếm lĩnh thị trường như bảo hiểm tài sản và thiệt hại (bao gồm cả bảo hiểm dầu khí), bảo hiểm hàng không, bảo hiểm thân và vỏ tàu, bảo hiểm trách nhiệm. Mặc dù bảo hiểm tài sản và thiệt hại đang đóng vai trò quan trọng nhất trong cơ cấu tổng doanh thu của PVI nhưng doanh nghiệp vẫn đang cố gắng đa dạng hóa sản phẩm, chú trọng phát triển các sản

phẩm bán lẻ như bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm cơ giới. Trong giai đoạn 2012 – 2018, tốc độ tăng trưởng toàn ngành của PVI duy trì ổn định ở mức 22 – 27 %, vượt qua Bảo Việt để dẫn đầu thị trường bảo hiểm Việt Nam.

Theo Báo cáo thường niên của PVI năm 2017 thì có đến 5 sản phẩm bảo hiểm đang được xếp vị trí dẫn đầu thị trường. Tiếp theo đó, có 1 sản phẩm xếp vị trí thứ hai và 2 sản phẩm xếp vị trí thứ 3. Số liệu này minh chứng cho vị thế của PVI cũng như tính ưu việt của chính đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm của doanh nghiệp này trên thị trường hiện nay.

PVI cũng là doanh nghiệp bảo hiểm hàng đầu thị trường thực hiện kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, nhân thọ, tái bảo hiểm,... Hiện nay, doanh nghiệp cung cấp cho thị trường hàng trăm sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ các loại, áp dụng cho mọi đối tượng bảo hiểm, đáp ứng cao nhu cầu của cá nhân, tổ chức. Ví dụ như sản phẩm bảo hiểm dành cho xe cơ giới có 3 hạng mục là bảo hiểm thiệt hại vật chất ô tô, bảo hiểm tai nạn người ngồi trên ô tô và bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc khi sử dụng ô tô.

Với chủ trương minh bạch giá sản phẩm, khách quan, cung cấp dịch vụ với chi phí hợp lý nhất, có những chính sách ưu đãi đối với các nhóm khách hàng khác nhau, PVI đã xác định biểu giá của các sản phẩm bảo hiểm theo quyết định số 401/QĐ-PVIBH ngày 28 tháng 5 năm 2014 và công khai giá sản phẩm trên cổng thông tin chính thức của PVI. Điều này giúp cho khách hàng có thể nghiên cứu, so sánh các quyền lợi bảo hiểm cũng như mức giá cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm để đưa ra quyết định cuối cùng sẽ lựa chọn nhà cung cấp nào.

PVI nhân rộng hoạt động kinh doanh của mình thông qua kênh phân phối trực tiếp và gián tiếp. Trong đó, tại kênh trực tiếp, doanh nghiệp đã xây dựng được một hệ thống các doanh nghiệp thành viên (31) và Văn phòng đại diện (95) rộng khắp các tỉnh trong cả nước để tiếp cận với khách hàng. Tại kênh gián tiếp, cả tổng công ty và các thành viên đều xây dựng và khai thác hệ thống môi giới bảo hiểm. Ngoài ra, với sự bùng nổ của công nghệ số, doanh nghiệp đang đẩy mạnh kênh bán hàng trực tuyến nhằm giảm đáng kể chi phí bán hàng, thời gian giao dịch, chi phí đào tạo đồng thời tăng độ phủ rộng thị trường sản phẩm của PVI.

PVI đã sử dụng rất nhiều cách thức để xúc tiến sản phẩm cũng như định hình thương hiệu sản phẩm vào trong tiềm thức của khách hàng. Doanh nghiệp đã sử dụng website chính thức để quảng cáo sản phẩm và liên kết với những trang mạng khác để làm các banner quảng cáo sản phẩm. Bên cạnh đó, PVI còn là nhà tài trợ của rất nhiều giải đấu, sự kiện,... như hoạt động “Đồng hành cùng ngư dân ra khơi – bám biển”, “Đồng hành cùng Otofun”,... Tại những hoạt động như vậy, PVI càng thâm nhập sâu hơn vào thị trường bán lẻ, khẳng định vị trí của mình trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.

Xem tất cả 201 trang.

Ngày đăng: 17/05/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí