Doanh Nghiệp Bảo Hiểm Và Hoạt Động Kinh Doanh Bảo Hiểm

cộng đồng và đầu tư vào các kênh uy tín như trái phiếu chính phủ, cổ phiếu, bất động sản… để tạo ra giá trị thặng dư và đáp ứng các nhu cầu tài chính khác

Thứ ba, bảo hiểm tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế, ổn định ngân sách nhà nước. Phần lớn các doanh nghiệp bảo hiểm từ nước ngoài đầu tư và có ký quỹ trái phiếu với Nhà nước để đảm bảo hoạt động kinh doanh. Ở Việt Nam, Bộ Tài chính trực tiếp quản lý những doanh nghiệp này để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng bảo hiểm. Ngoài ra, nguồn đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm góp phần vào nguồn thu ngân sách của nhà nước.

Vai trò xã hội

Thứ nhất, tác động tích cực tới công tác phòng tránh rủi ro, hạn chế tổn thất và đảm bảo an toàn cho xã hội

Thứ hai, tạo thêm việc làm cho người lao động trong lĩnh vực bảo hiểm

Thứ ba, tạo nếp sống tiết kiệm, đề phòng và tự bảo vệ bản thân; đem lại trạng thái an toàn và yên tâm cho mọi người

Tóm lại, bảo hiểm có vai trò to lớn và nhiều mặt; vai trò này thể hiện thông qua việc phát triển thị trường bảo hiểm toàn diện, an toàn và lành mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của nền kinh tế và dân cư; đảm bảo cho các tổ chức, cá nhân được hưởng thụ những sản phẩm bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế; thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế- xã hội; nâng cao năng lực tài chính, kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế

2.1.2.2. Đặc điểm của bảo hiểm

Bảo hiểm là một sản phẩm vô hình, trong khi các sản phẩm hữu hình khác có thể cảm nhận bằng giác quan, thẩm định và đánh giá trước khi mua bởi người mua, bảo hiểm không thể cầm nắm và cảm nhận được. Phía cung ứng bảo hiểm chỉ có thể mô tả lợi ích mà dịch vụ có theo kinh nghiệm của bản thân người cung ứng.

Qua hợp đồng bảo hiểm, người mua bảo hiểm cam kết trả phí bảo hiểm đúng hạn và doanh nghiệp bảo hiểm cam kết bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Như vậy, người mua chỉ cảm nhận được sự có mặt của bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, tuy rằng bảo hiểm luôn hiện diện trong mọi hoạt động sống của đối tượng bảo hiểm trong suốt thời gian bảo hiểm. Đây được coi là đặc điểm tạo nên tính đặc thù của dịch vụ bảo hiểm. Nếu các sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ thông thường sẽ được sản xuất, đóng gói và bán cho khách hàng sử dụng thì bảo hiểm có quy trình ngược lại. Bảo hiểm sẽ được bán ra trước và chỉ khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm mới tính toán được sản phẩm lúc này trị giá bao nhiêu và chuyển quyền lợi đến khách hàng. Trong thực tế, người mua sản phẩm bảo hiểm

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

không hề mong muốn sự kiện bảo hiểm xảy ra dù hợp đồng bảo hiểm là một “lời hứa” đem lại khoản tiền rất lớn khi sự kiện bảo hiểm xảy ra do thiệt hại thường rất lớn.

Mặt khác, sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm dễ bắt chước do thiết kế dựa trên các lợi ích cơ bản đối với khách hàng. Sản phẩm bảo hiểm không có những yếu tố thuộc về bí mật độc quyền và các hợp đồng bảo hiểm của một doanh nghiệp bảo hiểm không phải là đối tượng bảo hộ bản quyền trừ tên gọi và biểu tượng doanh nghiệp.

Áp dụng Marketing mix tại tổng công ty bảo hiểm Bảo Minh - 6

2.1.3.Doanh nghiệp bảo hiểm và hoạt động kinh doanh bảo hiểm

Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm [40].

Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của luật kinh doanh bảo hiểm và các quy đinh khác của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm mang một số đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất, doanh nghiệp bảo hiểm có hoạt động kinh doanh tài chính, chủ yếu thường xuyên và mang tính nghề nghiệp là kinh doanh bảo hiểm. Kinh doanh bảo hiểm cung cấp dịch vụ tài chính đặc biệt nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh trên những rủi ro. Sản phẩm của bảo hiểm là sản phẩm vô hình, giúp đảm bảo về mặt tài chính trước rủi ro cho người được bảo hiểm kèm theo là dịch vụ có liên quan. Do đặc tính này nên việc tính toán hiệu quả của kinh doanh bảo hiểm gặp nhiều khó khăn.

Thứ hai, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm được tổ chức, thành lập và hoạt động theo các quy định của luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật.

Thứ ba, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm chịu sự quản lý trực tiếp của bộ Tài chính. Để quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm hầu hết các quốc gia trên thế giới đều giao cho một cơ quan quản lý nhà nước nhất định. Đây là đặc điềm giúp phân biệt doanh nghiệp bảo hiểm với doanh nghiệp khác trong nền kinh tế.

Các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động chủ yếu trên các lĩnh vực: Kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm.

Trong kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm được quyền chủ động bán bảo hiểm dưới các hình thức sau: trực tiếp; thông qua các đại lý bảo hiểm, môi giới bảo hiểm; thông qua đấu thầu; và các hình thức khác phù hợp với quy định của pháp luật.

Trong kinh doanh tái bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền chuyển nhượng một phần trách nhiệm đã nhận bảo hiểm cho một hay nhiều doanh nghiệp bảo hiểm

khác nhưng không được nhượng toàn bộ trách nhiệm bảo hiểm đã nhận trong một hợp đồng bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm khác để hưởng hoa hồng tái bảo hiểm.

Quản lý quỹ và đầu tư vốn:

Quản lý quỹ: Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp bảo hiểm phải luôn duy trì mức vốn điều lệ đã đóng góp không thấp hơn mức vốn pháp định đã quy định.

Trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ: là khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập nhằm mục đích thanh toán cho những trách nhiệm bảo hiểm đã được xác định trước và phát sinh từ các hợp đồng bảo hiểm đã giao kết.

Đầu tư vốn: Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm: vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc, quỹ dự trữ tự nguyện, các khoản lãi những năm trước chưa sử dụng và các quỹ được sử dụng để đầu tư hình thành từ lợi tức để lại của doanh nghiệp, nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.

Với những đặc thù riêng của ngành kinh doanh bảo hiểm như đã đề cập ở trên, nội dung hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm mang những đặc điểm như sau:

Đối tượng kinh doanh đa dạng

Trong hoạt động hàng ngày diễn ra con người phải đối diện với rất nhiều những vấn đề và hầu như tất cả các vấn đề đều có nguy cơ xảy ra rủi ro và mỗi một rủi ro lại cần có một sự đảm bảo riêng lẻ tách rời. Chính điều này đã tạo nên nhiều loại hình (sản phẩm) bảo hiểm khác nhau để đáp ứng các nhu cầu của người mua bảo hiểm. Trong từng nhóm bảo hiểm, có nhiều loại bảo hiểm cụ thể hơn ra đời.

Bảo hiểm tài sản: bảo hiểm ô tô, xe máy, bảo hiểm máy bay, bảo hiểm tàu thủy, bảo hiểm vận chuyển hàng hóa nội địa và xuất nhập khẩu, bảo hiểm đầu máy và toa xe, bảo hiểm tài sản cá nhân và doanh nghiệp, bảo hiểm tín dụng.

Bảo hiểm con người: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tai nạn lao động, bảo hiểm tai nạn hành khách, bảo hiểm tai nạn học sinh, sinh viên…

Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: bảo hiểm trách nhiệm dân sự lái xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu, bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ hãng hàng không…

Bảo hiểm là ngành kinh doanh có nguồn vốn lớn

Các doanh nghiệp bảo hiểm hầu hết đều sở hữu nguồn vốn lớn. Nguồn vốn của những doanh nghiệp này thường bao gồm vốn điều lệ, phí bảo hiểm, lãi đầu tư… Trong đó, vốn điều lệ phải đảm bảo như vốn pháp định, phụ thuộc theo quy định của pháp luật. Vốn pháp định với ngành bảo hiểm thường lớn do là đặc thù ngành kinh doanh rủi ro.

Nguồn vốn này các doanh nghiệp bảo hiểm có nhu cầu đầu tư dài hạn, đầu tư vào các dự án có mức độ mạo hiểm nhằm thu lợi nhuận. Hoạt động đầu tư là một bộ phận quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm. Hoạt động đầu tư

vừa góp phần phát triển quỹ tài chính, tạo điều kiện mở rộng quy mô doanh nghiệp; tăng quỹ phúc lợi, từ đó tăng thu nhập cho người lao động; thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội.

Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn luôn phải có dự phòng bảo hiểm.

Từ đặc thù phải thanh toán chi phí khi có rủi ro cho khách hàng, doanh nghiệp phải luôn duy trì khả năng thanh toán trong quá trình hoạt động. Doanh nghiệp bảo hiểm phải lập quỹ dự phòng nghiệp vụ từ phí bảo hiểm thu được.

Khi có nguy cơ mất khả năng thanh toán, doanh nghiệp phải chủ động thực hiện ngay các biện pháp tự khôi phục khả năng thanh toán, đồng thời báo cáo bộ Tài chính về thực trạng tài chính, nguyên nhân dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán và phương án khôi phục. Nếu không khôi phục được khả năng thanh toán, doanh nghiệp sẽ bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt.

Hoạt động kinh doanh bảo hiểm mang tính chất vừa hợp tác vừa cạnh tranh.

Trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, doanh nghiệp bảo hiểm tự nâng cao năng lực cạnh tranh của mình nhằm đem lại lợi ích tốt hơn cho người tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, dưới tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng cần xây dựng những chiến lược hợp tác nhằm tìm kiếm sự đồng thuận và xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh.

Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải tuân theo các quy định của pháp luật và các điều ước quốc tế có liên quan.

Để các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật và các điều ước quốc tế có liên quan đến hoạt động bảo hiểm.

2.2. Áp dụng marketing mix trong kinh doanh bảo hiểm

2.2.1. Khái quát marketing mix trong kinh doanh bảo hiểm

Marketing mix được Borden đặt vấn đề vào năm 1960, có thể được khái quát là sử dụng kết hợp các yếu tố marketing trong việc bán một sản phẩm cụ thể trong đó có sản phẩm dịch vụ bảo hiểm. Đến năm 1975, McCarthy đã phân loại các yếu tố hỗn hợp này thành 4P (sản phẩm - giá – phân phối – xúc tiến) và trước xu hướng lấy khách hàng tiêu dùng làm trung tâm định hướng marketing (consumer-centric marketing mix), nên hệ thống 4Ps được phát triển thành 7 Ps, bao gồm thêm ba yếu tố: nhân lực, quy trình vận hành,phương tiện-cơ sở vật chất. Tất cả các yếu tố này được áp dụng trong việc xây dựng và thực thi chiến lược marketing mix để bán sản phẩm bảo hiểm một cách hiệu quả. Tùy thuộc vào đặc điểm kinh doanh và mục tiêu của các kế hoạch marketing của các doanh nghiệp bảo hiểm, các nhà quản trị marketing sẽ có các cách áp dụng khác nhau đối với hệ thống 7p này. Hiện nay, marketing mix đóng vai trò

trung tâm trong chiến lược marketing của các doanh nghiệp bảo hiểm và là công cụ chủ yếu giúp dịch chuyển thông tin khách hàng thành các sản phẩm, dịch vụ mới và sau đó định vị những sản phẩm này trên thị trường. Theo ý kiến của Giáo sư tiến sỹ Ngô Xuân Bình, Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam tại cuộc phỏng vấn của tác giả luận án ngày 20/1/2020 “Chính việc áp dụng khác nhau đối với hệ thống marketing mix ở các doanh nghiệp bảo hiểm đã tạo ra sự khác biệt”.Tác giả luận án đồng ý với nhận định này.

Như đã đề cập ở trên, bảo hiểm là một dịch vụ tài chính thu phí của khách tiêu dùng và cung cấp cho họ khoản bảo hiểm khi có rủi ro. Lĩnh vực bảo hiểm được xếp vào nhóm ngành dịch vụ, vì vậy khi áp dụng các quyết định marketing mix trong kinh doanh bảo hiểm cần tập trung vào chất lượng sản phẩm và sự hài lòng của khách hàng. Ngoài ra, các quyết định xúc tiến sáng tạo cũng có vai trò lớn trong việc tạo dựng thương hiệu của doanh nghiệp bảo hiểm. Mặc dù không phải là tất cả, nhưng đây được cho là cách tương đối hiệu quả để khách hàng biết tới chất lượng dịch vụ bảo hiểm và tạo dựng khách hàng thủy chung.

Như vậy, theo tác giả luận án áp dụng marketing mix trong kinh doanh bảo hiểm là một nghệ thuật mang tính khác biệt trong việc xây dựng và vận hành các quyết định sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến, nhân lực, quá trình vận hành và phương tiện, cơ sở vật chất tại một doanh nghiệp bảo hiểm nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh tốt nhất. Nói cách khác việc xây dựng và vận hành hệ thống marketing mix này mô tả sự kết hợp cụ thể bảy loại quyết định nêu trên và việc thực thi các quyết định đó cho phép doanh nghiệp bảo hiểm đáp ứng nhu cầu của thị trường và đạt tới các mục tiêu kinh doanh. Nhà quản trị marketing có nhiệm vụ thiết kế và lựa chọn các phương thức kết hợp tốt nhất giữa chúng với nhau. Để có thể tổ chức hoạt động kinh doanh tốt, trước tiên doanh nghiệp bảo hiểm cần nhận biết tốt nội hàm chi tiết của áp marketing mix-7p (từ P1 đến P7)sau đây.

2.2.2. Nội hàm của áp dụng marketing mix trong kinh doanh bảo hiểm

2.2.2.1. Sản phẩm (P1)

Các quyết định sản phẩm bảo hiểm, hay chính sách sản phẩm bảo hiểm bao gồm: xác định chủng loại sản phẩm mà doanh nghiệp sẽ cung cấp cho thị trường, số lượng, sự đổi mới mẫu mã, sản phẩm mới, thời gian và đầu tư kinh phí…

Chính sách sản phẩm đề cập tới việc ra quyết định một cách có hệ thống liên quan tới mọi khía cạnh phát triển và quản lý các sản phẩm của doanh nghiệp bảo hiểm. Một chính sách sản phẩm được hoạch định sát thực, có cơ sở khoa học, cho phép doanh nghiệp bảo hiểm xác định chính xác những cơ hội, phát triển những chương trình

marketing hợp lý, duy trì những sản phẩm bán chạy càng lâu càng tốt, nâng cấp những sản phẩm đang bị suy giảm và loại bỏ những sản phẩm không còn nhu cầu.

Để tổ chức và quản lý sản phẩm có hiệu quả, doanh nghiệp bảo hiểm phải xác định được danh mục sản phẩm, tức là xác định được một loại hay các loại sản phẩm đưa ra bán và cần tạo ra các loại sản phẩm phong phú và phân loại những sản phẩm đó hợp lý.

Một danh mục sản phẩm hoàn chỉnh bao gồm một hay nhiều hạng mục sản phẩm khác nhau. Thông thường, khi nói một danh mục sản phẩm là nói tới nhiều loại sản phẩm mà doanh nghiệp cung ứng cho thị trường; còn một hạng mục sản phẩm là hình thực cụ thể của một loại sản phẩm. Một doanh nghiệp bảo hiểm bán một nhóm hạng mục sản phẩm có quan hệ gần nhau. Ví dụ, tập đoàn bảo hiểm FWD cung cấp một danh mục sản phẩm bao gồm bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ tại thị trường châu Á. Một khía cạnh quan trọng khác của chính sách sản phẩm là định vị sản phẩm.

Định vị sản phẩm tức là việc xác định vị thế của sản phẩm mà doanh nghiệp bảo hiểm cung ứng trên thị trường. Nói cách khác, tức là xem xét và đánh giá sản phẩm bảo hiểm đang ở vị trí nào trong sự mong đợi và chấp nhận của khách hàng, trong mối tương quan với đối thủ cạnh tranh cũng như thay đổi của môi trường kinh doanh. Định lượng được sự thay đổi của môi trường kinh doanh như khách hàng, thị trường, kinh tế vĩ mô cho phép doanh nghiệp bảo hiểm điều chỉnh kịp thời các chương trình phát triển sản phẩm.

Điều lưu ý là đối với sản phẩm bảo hiểm, người mua bảo hiểm chỉ có thể nhận bồi thường khi rủi ro xảy ra, đồng nghĩa với việc những lợi ích tức thì của sản phẩm từ thời điểm mua đến thời điểm được hưởng lợi ích thường rất dài. Có những gói bảo hiểm thời gian kéo dài đến hàng chục năm. Đặc điểm “tính xê dịch” của lợi ích sản phẩm bảo hiểm làm cho khả năng hấp dẫn và tính thuyết phục của sản phẩm bảo hiểm thường không cao. Vì vậy, trong áp dụng marketing mix, các doanh nghiệp bảo hiểm cần chú ý tới các giải pháp nhằm tăng tính hấp dẫn tức thì của sản phẩm thông qua khâu thiết kế sản phẩm. Khi bán sản phẩm, các doanh nghiệp bảo hiểm không thể tính ngay được hiệu quả của sản phẩm mà phải xem xét trong một khoản thời gian. Tính đặc thù này đòi hỏi khi xây dựng chiến lược kinh doanh, doanh nghiệp bảo hiểm cần phải tính toán và cân nhắc một cách kĩ lưỡng khi quyết định tung sản phẩm mới vào thị trường, cần kế hoạch hóa quá trình đổi mới sản phẩm cho hiệu quả nhất.

Sản phẩm bảo hiểm có những đặc trưng khác biệt với sản phẩm dịch vụ khác, điều này đòi hỏi hoạt động marketing phải có những giải pháp thích hợp làm cho sản phẩm vô hình trở nên hữu hình, khắc phục sự mất cân đối giữa cung và cầu, tìm cách chuẩn hóa chất lượng để khắc phục tính không ổn định của dịch vụ.

2.2.2.2. Giá1(P2)

Chính sách định giá sản phẩm bảo hiểm theo quan niệm marketing là hệ thống các quan điểm, phương pháp hoặc các cách thức mà doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng để xác định giá cho một sản phẩm bảo hiểm cụ thể. Điều khác biệt căn bản là khác với sản phẩm, phân phối và các chiến dịch truyền thông, giá cả có thể biến đổi.

Để có thể xây dựng được một chính sách định giá hợp lý và có lợi cho doanh nghiệp bảo hiểm, được thị trường mục tiêu chấp nhận nhà quản lý cần quan tâm tới cơ sở của việc hoạch định chính sách giá sản phẩm bảo hiểm.

Hoạch định các mục tiêu bao gồm một trong hai mục tiêu sau: (1) mục tiêu doanh số bán và lợi nhuận; hoặc (2) mục tiêu thị phần.

Xác định nhu cầu: sự hiểu biết đầy đủ về cầu của khách hàng sẽ góp phần xác định được mức giá tối ưu và giúp đạt tới mục tiêu giá cả được ấn định. Về thực chất, nhu cầu của khách hàng mua sản phẩm bảo hiểm ấn định mức giá của sản phẩm này.

Xác định chi phí: là cơ sở để doanh nghiệp ấn định mức giá sản của sản phẩm. Chi phí ở đây là toàn bộ phí tổn mà doanh nghiệp bảo hiểm bỏ ra để tạo ra một sản phẩm kể từ khi thiết kế, sản xuất, phân phối, xúc tiến và tiêu thụ. Việc xác định và dự tính chính xác chi phí không chỉ tạo lập cơ sở ban đầu cho việc định giá mà còn có ý nghĩa quan trọng với sự điều chỉnh giá trong suốt chu kỳ sống của sản phẩm bảo hiểm.

Các yếu tố khác có thể kể đến là: chính sách định giá của đối thủ cạnh tranh; tình hình kinh tế vĩ mô; chính sách kiểm soát và điều tiết giá của chính phủ.. ..

Các chính sách định giá phổ biến mà doanh nghiệp bảo hiểm có thể áp dụng:

Chính sách định giá dựa trên cơ sở chi phí gồm ba cách thức: (1) định giá cộng chi phí tức chỉ cần cộng thêm một khoản lợi nhuận được xác định trước vào chi phí; (2) định giá dựa trên chi phí bình quân cộng lợi nhuận là một dạng biến tướng của cách thức (1), áp dụng đối với những loại sản phẩm không thể phân tích nhu cầu của người mua và sự tác động của các yếu tố cạnh tranh; (3) định giá tại điểm hòa vốn là điểm mà tại đó doanh thu của doanh nghiệp cân bằng với tổng chi phí; (4) định giá dựa theo lợi nhuận mục tiêu dựa trên việc dự kiến thu được một tỷ lệ lợi nhuận định mức từ một khối lượng vốn đầu tư nhất định.

Chính sách định giá bảo hiểm dựa trên sự nhận thức của khách hàng và phản ứng cạnh tranh, về thực chất là dựa trên đặc điểm chất lượng của sản phẩm. Chính sách định giá này thường được áp dụng từ đầu giai đoạn tăng trưởng trong chu kỳ sống của sản phẩm bảo hiểm. Trong giai đoạn này, đặc điểm của thị trường là cạnh tranh độc quyền nhóm, nên doanh nghiệp phải tính đến chiến lược định giá của đối thủ và thái độ của người mua.


1 Trong kinh doanh bảo hiểm thì giá sản phẩm bảo hiểm đồng nghĩa với phí bảo hiểm

Giá sản phẩm bảo hiểm là lượng tiền mà khách hàng chi trả để được đảm bảo một mức bồi thường về mặt tài chính, được quy định cụ thể trong hợp đồng bảo hiểm. Đặc điểm chung của giá sản phẩm bảo hiểm là: (1) khách hàng lựa chọn sản phẩm bảo hiểm thông qua biểu mẫu giá; (2) thường nhỏ hơn rất nhiều so với mức độ tài chính mà doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường cho khách hàng; (3) Giữa giá bảo hiểm và chi trả bồi thường của các doanh nghiệp bảo hiểm có một ranh giới rõ ràng. Khách hàng phải trả phí tham gia bảo hiểm, song sẽ không nhận được chi phí bồi thường nếu rủi ro không xảy ra. Chiến lược định giá trong kinh doanh bảo hiểm có một vai trò rất quan trọng, trong đó phải giải quyết hai vấn đề là (1) định ra các mức giá cho phù hợp và

(2) đưa ra những ứng xử về giá linh hoạt, kích thích tiêu thụ, phù hợp với mục tiêu trong từng giai đoạn kinh doanh.

2.2.2.3. Phân phối(P3)

Các quyết định phân phối liên quan tới việc xác định doanh nghiệp bảo hiểm lựa chọn kênh phân phối nào, trực tiếp bán cho người tiêu dùng hay qua kênh trung gian; cần có bao nhiều kênh phân phối, bao nhiều điểm bán hàng, sự phối hợp giữa các kênh; phương thức điều tiết và kiểm soát các trung gian; xem xét và nhận định đối thủ cạnh tranh…

Chính sách phân phối sản phẩm bảo hiểm là một tập hợp những quyết định liên quan tới sự chuyển dịch của luồng sản phẩm và sự chuyển giao sở hữu sản phẩm từ người cung ứng bảo hiểm đến người mua hàng.

Các quyết định về kênh phân phối có ảnh hưởng rất lớn tới kế hoạch marketing mix của một doanh nghiệp bảo hiểm. Bởi những người môi giới có thể tạo ra rất nhiều nhiệm vụ đa dạng cho hoạt động marketing. Kế hoạch marketing mix của một doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có những khác biệt nếu doanh nghiệp tổ chức bán hàng trực tiếp hoặc bán hàng qua kênh thành viên một cách sáng tạo. Tương tự như vậy, bán hàng thông qua cửa hàng bán lẻ hoặc bán hàng qua thư cũng đòi hòi phải xây dựng các nhiệm vụ marketing khác nhau.

Kênh phân phối trực tiếp thực hiện những hoạt động đưa sản phẩm bảo hiểm từ người cung ứng bảo hiểm đến người mua mà không sử dụng bất cứ trung gian độc lập nào.

Kênh phân phối gián tiếp thực hiện những hoạt động đưa hàng từ người cung ứng đến người mua thông qua các trung gian.

Có thể nói, trong kinh doanh bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng sử dụng hai loại kênh phân phối trực tiếp và gián tiếp. Kênh phân phối trực tiếp thường đa dạng như: bán bảo hiểm tại văn phòng doanh nghiệp, bán qua mạng internet… và kênh phân phối gián tiếp chủ yếu là bán hàng qua hệ thống đại lý.

Xem tất cả 201 trang.

Ngày đăng: 17/05/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí