Các Công Trình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Đời Sống Tinh Thần Và Ảnh Hưởng Của Thế Giới Quan Phật Giáo Đối Với Đời Sống Tinh Thần Người Dân Đồng


đề tài khảo cứu kế thừa những quan điểm về thế giới trong nội dung thế giới quan Phật giáo.

Cuốn Thế giới quan Phật giáocủa thiền sư Thích Mật Thể [159], trước khi tìm hiểu về thế giới theo quan niệm của Phật giáo, tác giả đã tìm hiểu ở khoa học, triết học, tôn giáo, chính trị. Với Phật giáo, giáo lý phải có hai điều cốt yếu là sự thật và phương pháp. Trong quan niệm về sự vật đều có nhân duyên quan hệ với nhau mà sinh ra, ấy là nguyên lý của vạn hữu vũ trụ, phủ nhận thuyết thần tạo. Tác giả khẳng định, đi vào tìm hiểu Phật giáo có hai nguyên lý căn bản: 1. Tất thảy hiện tượng đều chuyển biến vô thường;

2. Bản thể bất sinh bất diệt.

Tác giả Minh Chi với cuốn Các vấn đề Phật học [17] đã trình bày các vấn đề Phật học như: Giới thiệu đạo Phật với người trí thức; lẽ vô thường của đạo Phật và phép biện chứng của mácxít; lẽ vô thường trong chủ nghĩa duy vật tầm thường; đạo Phật thấy vũ trụ và hiểu vật chất như thế nào? Bên cạnh những vấn đề Phật học, tác giả còn trình bày một quan niệm tổng quan về đạo Phật; giáo lý siêu việt của đạo Phật; một quan điểm về lịch sử Phật học; điểm qua các danh từ chuyên môn trong đạo Phật.

Nguyễn Duy Hinh viết cuốn Triết học Phật giáo Việt Nam [75] trong phần triết học Phật giáo tác giả trình bày những nội dung bản thể luận Phật giáo, khẳng định Duyên khởi luận là của Phật giáo. Tác giả kết luận bản thể luận Phật giáo phát triển qua hai bước; bước thứ nhất là trước Đại thừa đưa ra thuyết Vô ngã và thuyết Duyên khởi; bước thứ hai là Đại thừa tiếp thu một số tư tưởng Tân Bà la môn giáo đưa ra A lại da thức, Chân như, Như Lai tạng, Không v.v... làm bản thể của vạn hữu. Nhận thức luận Phật giáo, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu nhận thức luận của Phật giáo nguyên thủy, nói một cách khác là của thời kỳ trước Đại thừa. Mục đích nghiên cứu nhận thức luận Phật giáo của tác giả là chỉ nhằm tìm hiểu phương pháp nhận thức của Thích Ca Mầu Ni để quan sát Sinh - Lão - Bệnh - Tử của con người từ


đó đưa ra Tứ Diệu Đế. Giải thoát luận Phật giáo. Tác giả phân tích các luận giải về giải thoát luận của các nhà nghiên cứu trước đó. Theo tác giả, khái quát vấn đề Giải thoát trước Đại thừa dựa trên lý luận về Vô dư Niết Bàn, còn Giải thoát luận Đại thừa dựa trên lý luận Hữu dư Niết Bàn, Đại Niết Bàn, Tịnh Thổ, Cực Lạc Quốc; Giải thoát luận trước Đại thừa hướng đến chủ nghĩa cứu thế tâm cực xuất thế, còn Giải thoát luận Đại thừa hướng đến chủ nghĩa cứu thế tích cực nhập thế.

Nguyễn Thị Toan viết cuốn Giải thoát luận Phật giáo [175] tác giả cho rằng, muốn hiểu thấu đáo quan niệm về giải thoát của Phật giáo, không thể không tính đến những ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, xã hội cũng như những yếu tố tư tưởng, văn hóa mà trên đó Phật giáo được hình thành và phát triển. Đây là một cơ sở để tác giả đề tài kế thừa và khảo cứu sự ra đời thế giới quan Phật giáo dựa trên nền tảng chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tác giả cho rằng, giải thoát là phạm trù trung tâm của phần lớn các tôn giáo trên thế giới. Trong đó “giải thoát luận Phật giáo được coi là đỉnh cao trong tư tưởng giải thoát của Ấn Độ cổ đại” [175, tr.33]. Khái quát tư tưởng trọng yếu của Phật giáo nguyên thủy mà nền tảng là Tứ diệu đế. Sau đó tác giả trình bày giá trị lịch sử và những hạn chế trong quan niệm về giải thoát của Phật giáo nguyên thủy.Trong Tiểu thừa, Niết bàn mang tính chất cá nhân, là đích giải thoát của từng con người cụ thể chứ chưa phải là Niết bàn cho sự cứu độ chúng sinh trên cỗ xe Phật pháp Đại thừa và tác giả khẳng định quan niệm giải thoát là linh hồn của Phật giáo. Khát vọng giải thoát con người khỏi những khổ đau của cuộc đời mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Cuốn sách Phật học tinh hoa của Nguyễn Duy Cần [14], đã nói về lịch sử đạo Phật theo một sự tiến triển bao quát, có hệ thống về nguồn gốc ra đời, các thuyết lý chân phái của Tiểu thừa, Đại thừa. Trong đó tất cả giáo lý của nhà Phật đều tập trung vào sự giải thoát cứu rỗi con người khỏi mọi nỗi đau

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 181 trang tài liệu này.


nhân thế. Tác giả đưa ra những điểm trong triết thuyết Phật học về thuyết nhân quả, theo vòng biến thiên vô cùng, vô tận với sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa nội tâm và ngoại cảnh, giữa vật chất và tinh thần theo mối liên hệ tương hỗ, tác dụng qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau.

Ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần người dân đồng bằng Sông Hồng hiện nay - 3

Cuốn sách Vô ngã là Niết bàn - Tuyển tập của Thích Thiện Siêu [141], nội dung của tuyển tập này tập trung vào cái nhìn trí tuệ, từ bi và một niềm tin đạo trong sáng, chúng sinh nên biết rằng, hữu ngã là luân hồi, mà vô ngã là Niết bàn. Trên cơ sở đó, tác giả tìm hiểu về mối quan hệ giữa Đạo Pháp và dân tộc, Tứ diệu đế về cuộc đời con người; lý duyên khởi hay thập nhị nhân duyên. Đặc biệt tác giả giới thiệu nguyên tắc chung sống hòa bình của Phật giáo trong phát biểu tại hội nghị bàn tròn về “Nguyên tắc an ninh và giá trị của trật tự tinh thần và đạo đức” tại Moscow từ 18-20 tháng 3 năm 1987. Những nguyên tắc này nếu được thực hiện, sẽ là đảm bảo cho một nền hòa bình chân chính và bền vững trong giá trị trật tự tinh thần đạo đức và an ninh chung.

Ngoài ra còn một số cuốn sách rất nổi bật nghiên cứu liên quan đến thế giới quan Phật giáo trên ba mặt về thế giới, về con người, về cuộc đời con người đáng chú ý như: Cuốn Phật giáo trong ba bài diễn thuyết của Trần Trọng Kim [93]. Tác giả tập trung nghiên cứu Phật giáo đối với nhân sinh, tìm hiểu về thuyết thập nhị nhân duyên, Tiểu thừa, Đại thừa; Đoàn Trung Còn với Pháp giáo nhà Phật [24]. Viết về Pháp theo Phật, bàn về vũ trụ với vạn vật trong Phật giáo. Ba nền tảng của đạo Phật, tứ diệu đế, Niết bàn; Lưu Vô Tâm viết về Phật học khái lược [150].

1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI DÂN ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

1.2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đời sống tinh thần

Đời sống tinh thần là một lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội con người, nó có phạm vi rất rộng lớn và phức tạp. Do vậy, việc xác định nội


dung khái niệm đời sống tinh thần phụ thuộc vào cách nhìn nhận, cách tiếp cận khác nhau.

Phùng Đông viết bài Vị trí, ý nghĩa của phạm trù đời sống tinh thần xã hội trong đời sống tinh thần xã hội trong chủ nghĩa duy vật lịch sử [54] cho rằng, đời sống tinh thần xã hội được hiểu bao gồm tất cả những gì liên quan đến lĩnh vực tinh thần: từ những giá trị, sản phẩm tinh thần đến những hiện tượng, quá trình tinh thần, từ những hoạt động tinh thần (sản xuất tinh thần, phân phối, tiêu dùng giá trị tinh thần…) đến những quan hệ tinh thần (trong trao đổi, giao tiếp tinh thần…). Nói đến đời sống tinh thần là nói đến tính liên tục về thời gian, tính rộng lớn về không gian của tất cả những hiện tượng, những quá trình tinh thần. Với ý nghĩa như vậy, nội dung phạm trù đời sống tinh thần xã hội là tất cả những giá trị, sản phẩm, hiện tượng, những quá trình, những hoạt động, những quan hệ tinh thần của con người phản ánh đời sống vật chất xã hội và được thể hiện như là phương thức hoạt động và tồn tại tinh thần của con người trong những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.

Cuốn Những chuyên đề Triết học (Dành cho cao học và nghiên cứu sinh) của Nguyễn Thế Nghĩa [123], cho rằng, ý thức xã hội là phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Nó bao gồm những quan điểm, tư tưởng, lý luận cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống, thói quen, sở thích… phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Như vậy quan niệm của tác giả đã đồng nhất đời sống tinh thần của xã hội với ý thức xã hội.

Vi Quang Thọ viết cuốn Đời sống tinh thần của cá nhân - khái niệm và nguyên tắc nghiên cứu [161] cho rằng, đời sống tinh thần của xã hội, về bản chất là quá trình tồn tại hiện thực của mọi người, còn thực tế thì đó là cách thức hoạt động sống có tính chất xã hội và là lĩnh vực độc lập tương đối, có liên quan tới sản xuất và truyền bá ý thức, tới việc thỏa mãn những


nhu cầu tinh thần của mọi người. Đời sống tinh thần, các quan hệ tinh thần và ý thức (3 nhân tố cấu thành hệ thống: hoạt động tinh thần - quan hệ tinh thần - ý thức). Với quan điểm này đã chỉ ra tính chất đặc trưng của đời sống tinh thần thông qua sự tác động giữa nhân tố cấu thành hệ thống của đời sống tinh thần xã hội.

Bài viết Bản chất và quy luật của đời sống tinh thần của Đào Duy Thanh [153], tác giả viết, cũng như bất kỳ một hiện tượng nào xã hội nào khác, đời sống tinh thần của con người và xã hội cũng được nghiên cứu từ bên trong bản thân ý thức xã hội, do đó nó không thể mang tính tuyệt đối. Về kết cấu, đời sống tinh thần được chia theo chiều dọc thành những cấp độ và chiều ngang thành những hình thái. Ở nét chung nhất, đó là những cấp độ cơ bản của lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội. Toàn bộ các hình thái của ý thức xã hội hoạt động trong phạm vi những cấp độ ấy. Đó là mối quan hệ giữa ý thức sinh hoạt đời thường và ý thức lý luận, giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng cũng như sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội như triết học, ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo và khoa học.

Cuốn Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay nay của Nguyễn Tài Thư [169], tại chương I về hình thái và sự tác động của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay. Khẳng định trong lịch sử tư tưởng nước ta có thời kỳ một học thuyết tư tưởng hoặc một đạo giữ vai trò thống trị xã hội như Phật giáo ở thế kỷ X - XIV. Nho giáo ở thế kỷ XV - XIX, học thuyết Mác - Lênin từ thập kỷ 40 của thế kỷ XX đến nay. Nhưng chưa bao giờ xảy ra hiện tượng chỉ có một học thuyết tư tưởng hoặc một tôn giáo chi phối toàn bộ đời sống tinh xã hội. Các học thuyết tư tưởng, các tôn giáo, các tín ngưỡng hiện đang tồn tại ở nước ta thì có nhiều, nhưng có thể chia ra làm 4 loại chủ yếu: các học thuyết truyền thống, các tôn giáo và tín ngưỡng xưa nay, các trào lưu tư


tưởng tư sản phương Tây cận hiện đại, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết lớn nhất, là tư tưởng lãnh đạo xã hội ta ngày nay.

Nguyễn Văn Bốn viết bài Hệ giá trị tinh thần truyền thống của Người Việt trong thời hội nhập [13] bài viết này tìm hiểu giá trị tinh thần truyền thống và xác định những truyền thống nào có ý nghĩa trong thời kỳ hội nhập. Theo tác giả hệ giá trị tinh thần tốt của người Việt được kế thừa phát huy và góp phần mang lại những thành tựu trong các lĩnh vực của đời sống trong thời kỳ đổi mới. Ngược lại, có những thói hư tật xấu của người Việt đang cản trở và tác động xấu đối với sự phát triển của xã hội. Như hệ giá tinh thần truyền thống tốt của người Việt như: yêu nước, cần cù, sáng tạo, anh hùng, lạc quan, thương người, vì nghĩa, ham học, yêu hòa bình, nhẫn nhịn… Tác giả dẫn chứng những thói xấu của người Việt nhìn dưới góc độ phản giá trị như: không bền chí, nông nổi, hay thất vọng, hay khoe khoang, ưa hư danh, tinh vặt, sự vụ lợi, tò mò, vô kỷ luật, thờ ơ, lười biếng, thích hưởng thụ… Trên cơ sở đó tác giả đưa ra những giải pháp cho hệ giá trị tinh thần truyền thống của người Việt để hệ giá trị tinh thần truyền thống của người Việt trở thành bản sắc văn hóa, là nền tảng vững chắc cho Việt Nam hội nhập và phát triển bền vững.

Trần Văn Bính viết bài Biến đổi trong hệ chuẩn mực đạo đức xã hội nước ta trước tác động của nền kinh tế thị trường [9] tác giả cho rằng có một thực tế ở nước ta cũng như nhiều nước khác là sự phát triển của đời sống vật chất đã không tỷ lệ thuận với đời sống văn hóa tinh thần và các giá trị đạo đức xã hội cần có để phát triển hài hòa và bền vững. Tác động của tính chất hai mặt của kinh tế thị trường ở nước ta cho thấy đời sống vật chất của xã hội được nâng lên, cải thiện rõ rệt, nhưng đời sống tinh thần, đạo đức xã hội thì xuống cấp, một trong những nguyên nhân quan trọng là do chúng ta chậm nhận thức ra mặt trái của kinh tế thị trường.


Văn Đức Thanh viết bài Tác động khách quan của tiêu chí nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội [151] đã khẳng định tác động của tiêu chí Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội nước ta được biểu hiện đa dạng trên rất nhiều nội dung và mọi phương diện, lĩnh vực xã hội thông qua quá trình thực hiện các chức năng xã hội của Nhà nước, từ phương diện chính trị, kinh tế đến văn hóa… Tác động của tiêu chí Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa làm cho phương diện văn hóa của đời sống xã hội nước ta phát triển theo hướng khuyến khích sự sáng tạo những giá trị văn hóa tiên tiến, khơi thông sức sống từ chiều sâu lịch sử truyền thống dân tộc và tăng khả năng tích hợp tinh hoa văn hóa nhân loại của nền văn hóa dân tộc. Tiêu chí Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn tác động đến nhiều phương diện khác của đời sống xã hội nước ta như đạo đức, tín ngưỡng tôn giáo, ý thức dân tộc… Song, nhìn chung một cách tổng quát, sự phát triển các phương diện đời sống xã hội dưới tác động của tiêu chí đó đạt hiệu quả cao khi các chức năng của Nhà nước được thực hiện thống nhất.

1.2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến ảnh hưởng của thế giới quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần người dân đồng bằng sông Hồng

Công trình nghiên cứu của Nguyễn Thị Bảy, Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội và châu thổ Bắc bộ [6] có cách tiếp cận khá độc đáo về văn hóa Phật giáo châu thổ Bắc bộ từ góc độ vật chất, tinh thần và văn hóa ứng xử. Tác giả rất sâu sắc khi nhận định rằng: “Đã có một thời gian dài với người Việt, đạo Phật như một cứu cánh của những tâm hồn đau khổ, đạo Phật trở thành hệ tư tưởng dẫn đường cho cuộc đấu tranh giành độc lập, là một tác nhân trong mối liên kết các thành phần dân tộc” [6, tr.96]. Hơn thế nữa, khi đánh giá vai trò của đạo Phật đối với đời sống tinh thần của người dân Việt, tác giả cho rằng, “với giáo lý cơ bản của nó, đạo


Phật luôn đặt một trọng tâm vào việc giáo dục thiện tâm, tính nhân bản, làm cho mọi điều tốt lành cho mình và cho mọi người” [6, tr.142]. Trong đời sống tinh thần, tác giả đã khai thác những khía cạnh quan trọng về thế giới quan, cuộc sống của con người sau cái chết, và khi chết đi, trong các đám tang cổ truyền của người Việt trước khi mai táng ở nhà có thỉnh sư và các vãi đến tụng kinh, hành lễ; khi đưa ma thì từ xưa cho đến nay, vẫn còn nhiều đám ma có sư vãi đi trước, vãi mang phướn, sư sãi tay cầm tràng hạt niệm Phật, cầu cho người chết được siêu sinh nơi Tây phương cực lạc. Khi đến mộ, các sãi - vãi chăng vải như tượng trưng cho sự bắc cầu cho vong từ thế giới bên này sang thế giới bên kia.

Cuốn Phật giáo với văn hóa Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy [41] đã đề cập đến ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn hóa hữu hình và văn hóa tinh thần của người Việt. Theo tác giả, những nếp nghĩ, nếp sống theo Phật giáo của của người dân Việt, được biểu hiện ra ý thức tư tưởng, quan niệm nhân sinh, đời sống chính trị, nếp sống đạo đức, đời sống tâm linh, quan niệm sinh tử, tục lệ tang ma, lễ hội, và mảng lớn của Phật giáo để lại cho nền văn học với triết lý về Phật. Khi nói về Phật giáo với quan niệm nhân sinh, tác giả đã nghiên cứu con người hữu tình nhân sinh, con người nghiệp kiếp, con người bể khổ, con người tu hành thoát khổ,… Tác giả cho rằng, nói về Phật giáo ở Việt Nam có tư tưởng nhập thế, ta có thể hiểu theo hai cách:

Một là, nó hòa đồng được vào sự hỗn dung tín ngưỡng của người Việt (Kinh), để bản thân nó có thể mở rộng, tồn tại lâu dài.

Hai là, trong từng thời kỳ, nó hòa đồng được vào văn hóa chính trị của đất nước, và lâu dài, nó hòa đồng được vào với văn hóa đạo đức và đời sống tâm linh của người Việt (Kinh) [41, tr.280].

Hơn thế nữa, tác giả cũng rất sâu sắc cho rằng, Phật giáo ảnh hưởng đối với đời sống tinh thần của người Việt Nam nói chung và người dân đồng

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 08/03/2023