Đảm Bảo Đời Sống Của Người Dân Và Phát Triển Văn Hóa, Giáo Dục, Y Tế


phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm (ngân sách huyện 50%, ngân sách xã 20%, nhân dân đóng góp 30%), Củ Chi đã có 8.609 bộ đèn được đầu tư, tổng kinh phí trên 68,468 tỷ đồng, trong đó ngân sách huyện là 34,234 tỷ đồng, ngân sách xã là 13,694 tỷ đồng, nhân dân đóng góp 20,540 tỷ đồng. Bên cạnh đó, huyện Củ Chi còn đầu tư cho việc xây dựng Trung tâm văn hóa, Trung tâm Thể dục thể thao, xây dựng Nhà văn hóa xã Thái Mỹ, văn phòng của 40 ấp, khu phố văn hóa và 10 nhà bia tưởng niệm Liệt sĩ, tiến hành nâng cấp sửa chữa các phòng khám khu vực, một số trạm y tế xã, thị trấn [7].

Về cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp, một trong những yếu tố tạo nên nền nông nghiệp bền vững và ổn định là sự đóng góp của hệ thống công trình thủy lợi được quan tâm đầu tư hoàn chỉnh. Với chương trình kiên cố hoá kênh mương, từ đầu năm 2000 đến năm 2005, Củ Chi đã thực hiện được 381 km kênh các loại với tổng kinh phí đầu tư trên 200 tỷ đồng [7], trong đó có kênh N31A dài 16,4km đã hoàn thành vào đầu năm 2003. Đặc biệt, công trình thủy lợi quan trọng gắn liền với sản xuất nông nghiệp Thành phố phải kể đến là hồ Dầu Tiếng và hệ thống kênh Đông. Từ năm 2002, hệ thống thuỷ lợi Kênh Đông không còn là kênh mương đất nữa mà kiên cố hóa bằng bê tông, toàn bộ hệ thống được hiện đại hoá để chủ động trong việc điều tiết nước qua các cống vào từng cánh đồng. Hệ thống kênh Đông đảm bảo nước tưới cho gần 15 ngàn héc ta đất canh tác. Đối với thủy lợi Dầu Tiếng, công trình này đã tưới trực tiếp cho 63.000 ha, trong đó Tây Ninh 48.500 ha, Củ Chi khoảng

15.000 ha và mở rộng thêm hệ thống tưới Tân Hưng để đạt được diện tích 10.700 ha, tạo nguồn nước cho 41.000 ha ven sông Sài Gòn và Vàm Cỏ Đông; cung cấp nguồn nước sạch cho các nhà máy nước Thủ Dầu Một - Bình Dương và nhà máy nước Tân Hiệp – TP. Hồ Chí Minh, đẩy ranh giới mặn trên sông Sài Gòn và một số vùng trên sông Vàm Cỏ Đông, góp phần làm giảm mức độ ô nhiễm, hạn chế xâm nhập mặn trên sông Sài Gòn và hệ thống kênh rạch trong vùng vào thời điểm mùa khô.

Sự đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đã giúp Củ Chi đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, tạo nên những biến chuyển về kinh tế, xã hội trong quá trình đô thị hóa của Củ Chi.

2.3. Quản lí đô thị


2.3.1. Quản lí chính quyền đô thị

Để phù hợp với quá trình đô thị hóa ở Củ Chi, công tác củng cố xây dựng hệ thống chính quyền bước đầu đạt được những kết quả đáng khích lệ trong cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa một dấu" và triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Bộ máy quản lý hành chính nhà nước của Củ Chi được kiện toàn sắp xếp lại về mặt tổ chức và tinh giản biên chế. Ðội ngũ cán bộ được tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng theo hướng tiêu chuẩn hóa và thích ứng dần với cơ chế mới. Quy trình giải quyết các hồ sơ thủ tục hành chính được công khai hóa,tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân,đồng thời hạn chếđượctình trạng nhũng nhiễu trong cán bộ công chức. Từ đó, năng lực hoạt động thực tiễn của bộ máy chính quyền các cấp từng bước có sự trưởng thành và nâng lên. Hệ thống chân rết ở ấp, khu phố, tổ nhân dân, tổ dân phố thường xuyên được củng cố góp phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước trên địa bàn Củ Chi.

Trong các năm 1997-2000, Củ Chi đã thực hiện có hiệu quả chương trình “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực”; nâng cao chất lượng hoạt động của khu phố, tổ dân phố. Việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở được triển khai đồng bộ, đảm bảo công khai, minh bạch quy định, quy trình, hướng dẫn các vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của nhân dân; phối hợp tổ chức đối thoại với nhân dân, lắng nghe ý kiến người dân, kịp thời giải quyết các quyền lợi chính đáng của nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tham gia giám sát chính quyền. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí luôn được chính quyền quan tâm thực hiện; thường xuyên thực hiện thanh tra, kiểm tra, nhất là các lĩnh vực nhạy cảm dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí; kịp thời chấn chỉnh hạn chế, thiếu sót về thực hiện công vụ trong quản lý Nhà nước đối với một số lĩnh vực và phòng ngừa hành vi tham nhũng, lãng phí; từng bước tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức, hành động của cán bộ, đảng viên và người đứng đầu cơ quan, đơn vị, qua đó góp phần nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân với chính quyền, với Đảng. Củ Chi cũng đã thực hiện tốt công tác tiếp công dân, quản lý Nhà nước về khiếu nại, tố cáo; giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo kịp thời, đúng pháp luật; tập trung giải quyết tốt các vụ việc khiếu nại phức tạp kéo dài, góp phần đảm bảo an ninh, trật tự và hạn


chế không để xảy ra các vụ việc khiếu nại, tố cáo nhiều người.

Trong giai đoạn 2000 - 2005, về cải cách thể chế và thủ tục hành chính, huyện luôn tăng cường công tác rà soát các văn bản, chuẩn hóa, mẫu hóa các biểu mẫu thủ tục hành chính đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả của các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành. Huyện đã tiếp tục thực hiện khoán biên chế và kinh phí hành chính trong khối quản lý nhà nước, đặc biệt chú trọng bồi dưỡng kỹ năng thực hành và tác nghiệp cho cán bộ, công chức; Thực hiện tốt quy chế dân chủ và chủ trương chống lãng phí, thực hành tiết kiệm, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức; Thực hiện tin học hóa trong quản lý hành chính nhà nước. Huyện Củ Chi đã có 88 công sở đạt chuẩn công sở văn minh, sạch đẹp, an toàn, đơn vị văn hóa, trong đó có 15 đơn vị được Thành phố công nhận [7]. Quy chế dân chủ cơ sở được thực hiện với phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra nên huy động đượcsức mạnh,nội lực của các tầng lớp nhân dân thamgiaxây dựng chính quyền, đóng góp vào các công trình phúc lợi xã hội.

Trong 5 năm (2000 - 2005), huyện Củ Chi đã tập trung chỉ đạo giải quyết ổn định các vụ khiếu kiện đông người chủ yếu phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện giải tỏa đền bù cho các dự án lớn như công trình đường dây 500 KV, khu xử lý chất thải rắn ở Tam Tân, nâng cấp mở rộng quốc lộ 22, khu công nghiệp Tây Bắc Củ Chi, dự án phim trường xã Hòa Phú. Huyện cũng đã kịp thời giải quyết các vụ đình, lãng công mang tính tự phát của công nhân nhất là trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời, trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội, chính quyền Củ Chi đã xóa 3 tuyến đường trọng điểm thường xảy ra cướp giật, 5 tụ điểm phức tạp, kéo giảm 40% số vụ phạm pháp hình sự, nâng tỷ lệ điều tra khám phá án trên 70% và khám phá 95% số vụ trọng án [7].

Về quản lí ngân sách của huyện, giai đoạn 2000-2005, tổng thu - chi ngân sách của huyện như sau:

Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn huyện 377,117 tỷ đồng, bình quân mỗi năm 75,423 tỷ đồng.

Tổng thu ngân sách huyện 805,822 tỷ đồng, bình quân 161 tỷ đồng / năm.


Tổng thu ngân sách xã, thị trấn 106,365 tỷ đồng, bình quân 21,273 tỷ đồng/năm. Tổng chi ngân sách huyện 795,458 tỷ đồng, bình quân 159 tỷ đồng /năm.

Tổng chi ngân sách xã, thị trấn 96,893 tỷ đồng, bình quân 19,378 tỷ đồng/ năm [7].

Nhìn chung các khoản thu ngân sách nhà nước hàng năm thực hiện đều đạt và vượt kế hoạch, năm sau cao hơn năm trước. Thực hiện thu đúng, thu đủ, huy động số thu kịp thời vào ngân sách. Việc quản lý và điều hành chi ngân sách huyện hàng năm luôn đảm bảo theo dự toán, giải quyết kịp thời các khoản chi thường xuyên, trong chi ngân sách khi bố trí dự toán chi đều có tiết kiệm chi thường xuyên để tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế - xã hội.

Trong quản lí tài nguyên - môi trường, chính quyền Củ Chi đặc biệt quan tâm đến công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đầu năm 2004, huyện Củ Chi đã cơ bản hoàn thành công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp và trong năm 2005 huyện đã lập quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010.

Quản lý nhà nước về môi trường trên địa bàn huyện cũng có những chuyển biến tích cực. Huyện đã cương quyết xử lý các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường, bắt buộc phải triển khai các biện pháp giảm thiểu tác động đến môi trường, không để phát sinh cơ sở gây ô nhiễm, đồng thời chấn chỉnh tình trạng khai thác đất, cát trái phép trên địa bàn huyện. Huyện Củ Chi đã chủ động phối hợp các ngành Thành phố kiểm tra 29 đơn vị sản xuất dọc theo kênh Thầy Cai, xử lý 16 đơn vị vi phạm, buộc di dời 11 cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp gây ô nhiễm ra khỏi Khu dân cư [7].

Trong công tác thông tin tuyên truyền, chính quyền huyện Củ Chi đã thực hiện nhiều biện pháp trong việc giáo dục pháp luật, tuyên truyền phổ biến các chủ trương, Nghị quyết của Ðảng, kết hợp được hình thức cổ động trực quan với các phương tiện thông tin đại chúng. Ðặc biệt là qua thực hiện chương trình "xóa đói thông tin" và phát huy hiệu quả hoạt động của Ðài truyền thanh huyện - xã,huyện đãhoàn thành việccấp phát radio cho hộ nghèo và đóng góp tích cực vào việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của huyện. Đài truyền thanh huyện Củ Chi được đầu tư trang thiết bị hiện đại với trên 90% số hộ được nghe đài qua hệ thống loa không dây. Đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và


nâng lên với 100% hộ có các phương tiện nghe nhìn [7].

Tuy nhiên, trong quản lí chính quyền ở huyện Củ Chi vẫn còn một số tồn tại như: lĩnh vực đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho lĩnh vực văn hóa xã hội, các khu vui chơi giải trí của nhân dân còn nhiều hạn chế. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho hoạt động văn hóa, thể dục thể thao cho các xã, thị trấn còn ít, tính xã hội hóa không cao. Một số dự án triển khai bồi thường giải phóng mặt bằng cho việc thi công các công trình còn chậm, chi trả tiền đền bù kéo dài và giải quyết tái định cư chưa tốt. Tình trạng lấn chiếm, vi phạm lộ giới, vi phạm trong xây dựng còn xảy ra nhiều trên địa bàn các xã, thị trấn chưa được xử lý kiên quyết và kịp thời.

2.3.2. Đảm bảo đời sống của người dân và phát triển văn hóa, giáo dục, y tế

Trong quản lí xã hội, chính quyền huyện Củ Chi đặc biệt chú ý tạo việc làm và xóa đói giảm nghèo cho nhân dân. Chương trình "xóa đói giảm nghèo" và triển khai thực hiện các dự án quỹ quốc gia giải quyết việc làm cùng với phong trào đoàn kết tương trợ ở nông thôn đã phát huy được tình làng nghĩa xóm và đạt hiệu quả thiết thực về nhiều mặt. Trong 5 năm (1996 - 2000), chính quyền huyện Củ Chi đã trợ vốn từ các nguồn trên 57 tỷ đồng cho

28.190 lượt hộ, giải quyết việc làm cho 34.696 lao động. Mặt khác, huyện đã liên kết với Ngân hàng giải quyết trợ vốn cho 800 hộ thực hiện xóa nhà tranh tre; gắn đầu tư vốn "xóa đói giảm nghèo" với chương trình phát triển chăn nuôi bò sữa một cách có hiệu quả, từ đó góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo của huyện từ 22% (năm 1996) giảm còn 4,9% (năm 2000). Toàn huyện có 79,86% số hộ có nhà ở kiên cố, bán kiên cố, trong đó có nhiều nhà tầng và biệt thự, trên 76% hộ có phương tiện nghe, nhìn, 63% hộ có xe gắn máy và cứ 100 dân có 4 máy điện thoại, điều kiện sinh hoạt gia đình ngày càng đầy đủ tiện nghi hơn. Đến cuối năm 2003, Củ Chi cơ bản hoàn thành chương trình xoá đói giảm nghèo theo tiêu chí của Thành phố thuộc giai đoạn 1992-2003, trước 2 năm so với Nghị quyết đề ra [5].

Sau khi hoàn thành giai đoạn 1 chương trình xoá đói giảm nghèo, huyện tiếp tục triển khai thực hiện xóa hộ nghèo theo tiêu chí mới của Thành phố (trên 6 triệu đồng/người/năm). Qua điều tra toàn huyện năm 2004 còn 9.995 hộ nghèo có thu nhập dưới 6 triệu đồng/người/năm, chiếm tỉ lệ 14,16% so với tổng hộ dân, trong đó có 6.188 hộ thu nhập dưới


4 triệu đồng/người/năm. Chương trình xóa đói giảm nghèo năm 2005 đã giúp cho 2.527 hộ nghèo vay số tiền là 9,9 tỷ đồng, tạo việc làm mới cho 1.694 lao động [7].

Ngoài việc thực hiện các chính sách thu hút đầu tư, huyện còn triển khai các giải pháp về đào tạo nghề và giới thiệu việc làm cho người lao động, hỗ trợ vốn cho người nghèo tự tạo việc làm từ nguồn quỹ xóa đói giảm nghèo. Số lao động được giải quyết việc làm tăng dần qua các năm từ 8.726 người năm 2000 tăng lên 11.270 người năm 2005, tốc độ tăng bình quân năm giai đoạn 2000 - 2005 là 5,3% [5].

Huyện Củ Chi đã tổ chức 124 hộ đi lập nghiệp ở nông trường quốc doanh Tâm Tân, Phạm Văn Cội, mở các lớp dạy nghề và đưa đi học nghề cho 221 lao động, là con em gia đình chính sách. Ngoài ra, huyện đã xét giải quyết trợ cấp thường xuyên cho gần 300 hộ nghèo cô đơn, chăm sóc và giúp đỡ 440 trẻ em mồ côi khuyết tật, tổ chức phát triển sản xuất tạo việclàm ổn định cho 15.885 lao động củahuyện,bình quân hàng năm tạo việclàm 3.177 lao động [5].

Số lao động được giới thiệu ở các công ty, xí nghiệp trên địa bàn huyện năm 2000 là

2.128 người, năm 2005 tăng lên 6.670 người. Các dự án quốc gia về hỗ trợ việc làm năm 2000 đã cho 1.796 hộ vay với số tiền là 10 tỷ đồng, tạo việc làm mới cho 2.383 lao động. Đến năm 2005, quỹ đã cho 1.250 hộ vay 13 tỷ đồng, tạo việc làm mới cho 1.680 lao động [7].

Nhìn chung, trong giai đoạn 2000 - 2005, hằng năm, huyện Củ Chi đã tạo và giải quyết việc làm cho trên 8.000 lao động, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu lao động trên địa bàn theo hướng tích cực và nâng tỷ lệ lao động có việc làm lên trên 95% với mức thu nhập bình quân đầu người đạt trên 8.000.000đ/người/năm.


Bảng 2.1. Kết quả giải quyết việc làm huyện Củ Chi giai đoạn 2001 - 2005

Đơn vị: Người


Chỉ tiêu

2000

2001

2002

2003

2004

2005

Bình quân

2001-2005

Tổng số lao động được GQVL

8.726

9.070

11.322

7.584

9.710

11.210

8.149

Trong đó








Giới thiệu cho các doanh nghiệp

2.128

2.103

3.420

2.573

6.335

6.670

3.517

Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm

2.383

3.263

4.104

1.081

1.005

1.680

1.855

Chương trình XĐGN GQVL

1.780

1.510

1.753

2.753

1.920

1.694

1.605

Ngân hàng chính sách xã hội cho

vay vốn tạo việc làm

2.435

2.194

2.045

1.177

450

1.166

1.172

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 219 trang tài liệu này.

Quá trình đô thị hoá ở huyện Củ Chi Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1997 đến năm 2015 - 8

Nguồn: Số liệu lưu tại phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Củ Chi

Từ bảng số liệu trên cho thấy, vấn đề giải quyết việc làm ở huyện Củ Chi thông qua các hình thức và con đường khác nhau, trong đó quan trọng nhất là giới thiệu nhân công cho các doanh nghiệp. Điều này phù hợp với quá trình hình thành một cách nhanh chóng các khu, cụm công nghiệp tại huyện Củ Chi. Tiếp đó, quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm, chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và ngân hàng chính sách xã hội cho vay vốn cũng đóng góp quan trọng trong quá trình tạo việc làm cho người lao động Củ Chi.

Song song đối với chương trình xóa đói giảm nghèo, vấn đề chăm lo nhà ở cho gia đình diện chính sách và dân nghèo được Đảng bộ - chính quyền và nhân dân Củ Chi đặc biệt quan tâm, đến năm 2005, diện chính sách và dân nghèo trong huyện đã được tặng 3.806 nhà tình nghĩa (tương đương 57 tỷ đồng), 3.754 nhà tình thương (tương đương 18,777 tỷ), giải quyết cho 4.160 hộ vay vốn trả góp xoá nhà tranh tre (với số tiền 22,783 tỷ đồng). Củ Chi đã cơ bản xóa hết nhà tranh tre, có 98,8% nhà kiên cố và bán kiên cố, vượt 8,8% so Nghị quyết [7].

Trong thời gian này, chương trình nước sạch cho sinh hoạt ở nông thôn đã tiếp tục được xây dựng với 1.268 giếng cho hộ nghèo. Năm 2000, huyện Củ Chi đã có 3.384 giếng nước sạch và 5 trạm cấp nước ở các khu dân cư đô thị hóa như Thị trấn Củ Chi, An Nhơn Tây, Phú Hòa Ðông, Tân Quy và ấp Tam Tân cùng với hàng ngàn giếng sạch do nhân dân tự khoan, đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nước cho sinh hoạt ở nông thôn [5].


Về phát triển giáo dục, chủ trương của huyện Củ Chi là tập trung đầu tư phát triển giáo dục nhằm từng bước thực hiện mục tiêu nâng cao trình độ dân trí của người dân, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở địa phương.

Năm 1997 toàn huyện có 50 trường phổ thông từ tiểu học đến trung học phổ thông với 53.595 học sinh các cấp với 1.797 giáo viên tham gia giảng dạy. Giai đoạn 1997-2000, tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi đến lớp mẫu giáo đạt 97,68% và 6 tuổi đến lớp 1 đạt tỷ lệ 100%. Huyện Củ Chi đã cơ bản khắc phục được tình trạng thiếu giáo viên và có 77,1% giáo viên đã được chuẩn hóa, chất lượng giảng dạy và học tập từng bước được nâng lên, tỷ lệ học sinh khá giỏi hàng năm đều tăng. Ðến năm 2000, hiệu suất đào tạo ở bậc tiểu học đạt 86,35% và bậc trung học cơ sở đạt 65,61%. Nhiều năm liền huyện Củ Chi đạt chuẩn quốc gia về chống mù chữ và phổ cập tiểu học, có 5 xã đạt chuẩn quốc gia về phổ cập trung học cơ sở [5].

Trong giai đoạn 2000-2005, tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi vào mẫu giáo, 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100%. Tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học giảm đáng kể. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cuối cấp học và thi đậu vào các trường Cao đẳng, Đại học đều tăng hằng năm. Khoảng cách giáo dục giữa Củ Chi với các quận nội thành giảm bớt. Năm học 2003- 2004 và 2004- 2005, kết quả tỷ lệ tốt nghiệp Trung học cơ sở Củ Chi được xếp hạng 5 và hạng 3 so với toàn thành phố [7]. Ngoài các trường tiểu học, trung học, trên địa bàn huyện còn có các cơ sở giáo dục khác đáp ứng nhu cầu học nghề, nâng cao trình độ dân trí. Trung tâm giáo dục thường xuyên Củ Chi giúp cho những học sinh bỏ học giữa chừng hoặc không đủ điều kiện vào các lớp phổ thông tiếp tục được học tập nâng cao trình độ. Thống kê về trình độ văn hóa tại Củ Chi qua 2 mốc thời gian năm 1999 và 2004 như sau:

Xem tất cả 219 trang.

Ngày đăng: 14/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí