Du lịch thương gia: Mục đích chính của loại hình du lịch này là đi tìm hiểu thị trường, nghiên cứu dự án đầu tư, ký kết hợp đồng, v.v…
Du lịch tôn giáo: Loại hình du lịch này nhằm thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng đặc biệt của những người theo các đạo giáo khác nhau.
Du lịch thăm hỏi, du lịch quê hương: Loại hình du lịch này phần lớn nảy sinh do nhu cầu của những người xa quê hương đi thăm hỏi bà con họ hàng, bạn bè thân quen, đi dự lễ cưới, lễ tang, v.v…
Du lịch quá cảnh: Nảy sinh do nhu cầu đi qua lãnh thổ của một nước nào đó trong thời gian ngắn để đi đến nước khác.
Ngoài ra có thể căn cứ vào hình thức tổ chức chuyến đi để phân thành du lịch theo đoàn và du lịch cá nhân; căn cứ vào thời gian du lịch phân thành du lịch dài ngày và du lịch ngắn ngày; hoặc căn cứ vào phương tiện giao thông, phương tiện lưu trú, vị trí địa lý của nơi đến du lịch để phân loại (Nguyễn Văn Đính & cs., 2006).
d. Khái niệm phát triển du lịch
―Phát triển‖ là một khái niệm đóng góp cả về mặt lý thuyết lẫn chính trị, nó phức tạp và mơ hồ. Ngày nay, nó đảm nhiệm một ý nghĩ giới hạn trong mỗi hoạt động của các cơ quan phát triển, đặc biệt là trong việc hướng tới giảm đói nghèo và mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (Thomas, 2004).
Trong các nghiên cứu của tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), ―phát triển‖ là một sự việc (sự kiện) cấu thành một giai đoạn mới trong một tình trạng thay đổi hoặc là sự thay đổi bản chất của một quá trình. Nếu không đủ điều kiện, ―phát triển‖ ngầm được hiểu là một sự thay đổi tích cực. Khi đề cập về mặt xã hội hay hệ thống kinh tế xã hội, ―phát triển‖ thường có nghĩa là cải thiện trong cả một hệ thống hay trong một số yếu tố thành phần. Một định nghĩa rộng hơn, ―phát triển‖ là một khái niệm đa chiều, bởi vì bất kỳ một cải thiện nào của hệ thống phức tạp, như hệ thống kinh tế xã hội, có thể xảy ra ở các bộ phận khác nhau với cách khác nhau, tốc độ khác nhau và được thúc đẩy bởi các lực lượng khác nhau. Ngoài ra sự phát triển của một phần trong hệ thống có thể tạo ra sự bất lợi đến sự phát triển của các bộ phận khác, dẫn đến những xung đột. Do vậy, đo lường sự phát triển tức là phải xác định, sự phát triển cho dù ở mức độ nào cũng phải được xem xét dưới nhiều góc độ (Lorenzo, 2011).
Trên phạm trù triết học, ―phát triển‖ được dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn của sự vật. Quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Quan điểm này cũng cho rằng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về mặt lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chu kỳ sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn (Nguyễn Ngọc Long & cs., 2009).
Có thể bạn quan tâm!
- Ảnh hưởng của phát triển du lịch đến sinh kế của hộ nông dân tỉnh Điện Biên - 1
- Ảnh hưởng của phát triển du lịch đến sinh kế của hộ nông dân tỉnh Điện Biên - 2
- Cơ Sở Lý Luận Về Ảnh Hưởng Của Phát Triển Du Lịch Tới Sinh Kế Hộ Nông Dân
- Những Tác Động Liên Quan Đến Phát Triển Du Lịch
- Các Nghiên Cứu Trong Nước Liên Quan Đến Ảnh Hưởng Của Phát Triển Du Lịch Tới Sinh Kế Hộ Nông Dân
- Các Nghiên Cứu Liên Quan Đến Phương Pháp Nhóm (Clustering Method) Và Nhóm Sinh Kế (Clustering Livelihoods)
Xem toàn bộ 191 trang tài liệu này.
Như vậy, sự phát triển có thể hiểu về bản chất đó là sự thay đổi theo chiều hướng tích cực (Sự gia tăng về số lượng, tốt hơn về chất lượng).
Thông qua những quan điểm về du lịch và phát triển thì phát triển du lịch là sự tăng lên về quy mô, số lượng các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, dịch vụ du lịch… kết hợp với sự tăng trưởng về doanh thu, số lượng khách lưu trú kể cả trong nước và quốc tế đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ du lịch, hoàn thiện các sản phẩm du lịch, các loại hình du lịch ngày càng được đa dạng hóa, cơ cấu dịch vụ du lịch tăng lên chiếm tỷ trọng cao trong tổng cơ cấu kinh tế nói chung, gia tăng chất lượng nguồn nhân lực du lịch và công tác quản lý điểm đến.
2.1.1.2. Một số khái niệm cơ bản về sinh kế hộ nông dân
a. Sinh kế
Khi thuật ngữ ―sinh kế‖ được đưa ra, nhiều người có thể nghĩ đến các thuật ngữ khác như kiếm sống, công việc, hỗ trợ... Thuật ngữ ―sinh kế‖ được nhận diện khi con người đã bước vào giai đoạn phát triển và cố gắng thực hiện các chiến lược để đảm bảo sự sống còn của họ. Sự phức tạp tiềm ẩn đằng sau thuật ngữ này được đưa ra bàn luận ngày càng nhiều khi chính phủ, xã hội và các tổ chức dân sự cố gắng hỗ trợ những người có phương tiện kiếm sống bị đe dọa, hư hỏng hoặc bị phá hủy. Từ đó, nhiều định nghĩa khác nhau đã xuất hiện để thể hiện rõ hơn bản chất của sinh kế. Các tổ chức như Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP), Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO), Công ước về thương mại quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES), Bộ Phát triển Quốc tế Anh (DFID), Ủy ban cứu trợ nạn đói của Oxford - Oxfam (Oxford Committee for Famine Relief) và một số cơ quan khác đã áp dụng các khái niệm để đáp ứng các mục tiêu, trọng tâm và những ưu tiên của mình. Trong đó, UNDP, FAO, CITES đều dựa trên khái niệm sinh kế của Chambers & Conway (1991): Sinh kế bao gồm khả năng, tài sản (bao gồm cả vật chất và nguồn lực xã hội) và các hoạt động cần thiết cho phương tiện kiếm sống. Một sinh kế bền vững khi nó cho phép con người đối phó và phục hồi từ những thất bại và rủi ro (như thiên tai, kinh tế, biến động xã hội...) và cải thiện phúc lợi
của họ và của thế hệ tương lai mà không làm suy giảm môi trường hoặc tài nguyên thiên nhiên.
Theo Oxfam (2002), sinh kế được hiểu là làm thế nào các hộ gia đình kiếm sống bằng cách dựa vào khả năng và tài sản để phát triển các chiến lược sinh kế được tạo ra bởi một loạt các hoạt động.
Tổ chức CRD (Trung tâm phát triển nông thôn miền Trung Việt Nam) khi triển khai các chương trình hoạt động phát triển cộng đồng giải thích rằng sinh kế là ―tập hợp tất cả các nguồn lực và khả năng mà con người có được, kết hợp với những quyết định và hoạt động mà họ thực thi nhằm kiếm sống cũng như để đạt được các mục tiêu và ước nguyện của họ. Trong khung phân tích sinh kế bền vững của DFID thì ―sinh kế bao gồm các khả năng, các tài sản (bao gồm cả các nguồn lực vật chất và xã hội) và các hoạt động cần thiết để kiếm sống‖.
b. Sinh kế bền vững và các yếu tố của khung sinh kế bền vững.
Ngày nay cách tiếp cận sinh kế bền vững đã trở nên phổ biến. Tài sản và khả năng tiếp cận các nguồn lực có tác động lớn đến sinh kế bền vững.
Hình 2.1. Khung sinh kế bền vững
Nguồn: Tổng hợp từ tài liệu của DFID (1999)
Với cách tiếp cận này, các tiềm năng của cộng đồng như năng lực, trình độ của người lao động, mạng lưới xã hội (tài sản xã hội), tiếp cận đến các nguồn lực vật chất và tài chính cần thiết cho phát triển sinh kế đều được tính đến một cách thấu đáo. Cụ thể, các nguồn vốn sinh kế bao gồm:
- Vốn con người: Sức khỏe, dinh dưỡng, giáo dục, kiến thức và kỹ năng, năng lực làm việc, khả năng thích nghi.
- Vốn xã hội: Các mạng lưới và mối liên hệ (khách quen, hàng xóm, quan hệ họ tộc), các quan hệ tin cậy với sự thông hiểu và giúp đỡ lẫn nhau, các nhóm chính thức và không chính thức, các giá trị và hành vi chung, các nguyên tắc và phong tục giống nhau, đại diện tập thể, các cơ chế tham gia trong việc ra quyết định, sự lãnh đạo.
- Vốn tự nhiên: Đất đai và sản vật, nước và nguồn nước, cây cối và các sản phẩm từ rừng, sinh vật tự nhiên, các loại sợi và lương thực tự nhiên, sự đa dạng sinh học, dịch vụ môi trường.
- Vốn vật chất: Cơ sở hạ tầng (phương tiện vận chuyển, đường xá, xe cộ, các tòa nhà và chỗ ở an toàn, nguồn cấp nước và hệ thống xử lý rác thải, năng lượng, truyền thông), các công cụ và công nghệ (các công cụ và thiết bị sản xuất, hạt giống, phân bón, thuốc trừ sâu, tập quán sản xuất).
- Vốn tài chính: Tiền tiết kiệm, các khoản tín dụng và vay nợ (chính thức và không chính thức), các khoản tiền chuyển về, lương hưu, lương định kỳ.
Cơ cấu/cấu trúc và quy trình/thể chế: Cơ cấu/cấu trúc bao hàm các tổ chức thuộc khu vực công, khu vực tư nhân, các tổ chức xã hội, dân sự. Các tổ chức thuộc khu vực công là các tổ chức đặt ra và thực hiện chính sách và quy định của luật pháp; các tổ chức/chủ thể thuộc khu vực tư nhân cung ứng các dịch vụ; mua bán trao đổi, thực hiện các chức năng khác có thể ảnh hưởng đến hoạt động sinh kế và kết quả; các tổ chức xã hội/dân sự đóng vai trò hỗ trợ, thúc đẩy, tạo điều kiện kết nối các chủ thể công/tư nhân đến đối tượng hưởng lợi. Các thể chế và quy trình được giải thích gồm các luật, các quy định, chính sách, thiết chế vận hành, các thỏa thuận, chuẩn mực xã hội, và các thông lệ. Những yếu tố này quy định phương thức vận hành của các cấu trúc. Các tổ chức công quyết định chính sách không thể vận hành hiệu quả nếu không có các định chế và quy trình phù hợp. Các thể chế/chính sách có ảnh hưởng mạnh mẽ đến người nghèo và các đối tượng dễ bị tổn thương thông qua hoạt động của các tổ chức/chủ thể. Các thể chế
và quy trình là quan trọng đối với mọi khía cạnh của hoạt động sinh kế, tạo động lực khuyến khích người dân đưa ra lựa chọn tốt hơn, cho phép hoặc không cho phép tiếp cận đến các loại nguồn vốn sinh kế; tạo điều kiện cho người dân chuyển đổi một dạng vốn/tài sản thành một dạng vốn/tài sản khác, thông qua các thị trường. Do đó các chính sách vì người nghèo trở nên một thành tố quan trọng trong Khung tiếp cận sinh kế bền vững.
Nếu đi từ phía bên phải của khung sinh kế bền vững sang phía bên trái, chúng ta có thể thấy xuất phát điểm của các dự định/kế hoạch phát triển sinh kế chính là hướng đến các kết quả sinh kế tích cực cho một cộng đồng nghèo, nhóm đối tượng dễ bị tổn thương. Các kết quả sinh kế này cũng chính là các mục tiêu phát triển, gồm tăng thêm thu nhập cho cộng đồng; tăng tính ổn định trong các hoạt động sinh kế (nhờ đó tăng tính ổn định trong đời sống nói chung); giảm tính dễ tổn thương của cộng đồng; tăng cường an ninh lương thực và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách bên vững (đôi khi các kết quả này có thể mâu thuẫn với nhau, ví dụ thu nhập cao trong ngắn hạn có thể triệt phá tài nguyên thiên nhiên). Vì vậy, trong nghiên cứu của Ellis (2000), kết quả của các chiến lược sinh kế được phân chia thành tác động đối với an ninh sinh kế và tác động với tính bền vững của môi trường. Nếu như khả năng tiếp cận các nguồn vốn sinh kế được cải thiện thì kết quả của an ninh sinh kế cao hơn (đặc biệt là thu nhập cao hơn, thu nhập ổn định hơn và giảm rủi ro). Và đây thường là mục tiêu quan trọng trong chiến lược sinh kế nông thôn. Lúc này tính bền vững về môi trường có thể là một mục tiêu hoặc có thể không.
Để đạt được kết quả sinh kế, cần thực hiện các can thiệp hay các chiến lược sinh kế. Chiến lược sinh kế là một tập hợp các hoạt động và phương pháp thực hiện các hoạt động đó, nhằm đạt mục tiêu sinh kế. Các chiến lược sinh kế này lại được triển khai và thực hiện nhờ vào một cấu trúc xã hội gồm các chủ thể (nhà nước/chính quyền và khu vực tư nhân, dân sự) thông qua các quá trình/quy trình/định chế gồm quy định của luật pháp, các chương trình/chính sách cụ thể, tập quán/phong tục, v.v… Để có được các chiến lược sinh kế, việc phân tích đánh giá phải được tiến hành ở hai cấp độ là (1) bối cảnh [gây tổn thương] và (2) mức độ tiếp cận/sở hữu của đối tượng đối với các nguồn lực khả dụng cho phát triển sinh kế gồm nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, nguồn lực vật chất (nhân tạo), nguồn tài lực và nguồn lực xã hội.
Theo Scoones (1998), có ba chiến lược sinh kế chính cho các nông hộ: thâm canh nông nghiệp hoặc mở rộng, đa dạng hóa sinh kế, và di cư. Một quan điểm thay thế được gọi là khuôn khổ của Khanya tập trung vào mối quan hệ với tài nguyên thiên nhiên và phân loại ba chiến lược sinh kế chính như dựa vào tài nguyên thiên nhiên, dựa vào nguồn tài nguyên không tự nhiên và di cư (Hussein, 2002). Dựa trên các tiêu chí khác, đặc biệt là mối quan hệ với các mối đe dọa bên ngoài, Soussan & cs. (2001) phân chia chiến lược thành hai loại thích ứng (thay đổi dài hạn trong mô hình hành vi) và đối phó (phản ứng ngắn hạn ngay lập tức những cú sốc và căng thẳng). Trên quan điểm khác, Soltani & cs. (2012) phân loại chiến lược sinh kế dựa trên các hoạt động sinh kế chính: chiến lược dựa vào rừng/chăn nuôi; chiến lược dựa vào trồng trọt/chăn nuôi và chiến lược phi nông nghiệp. Ở bối cảnh khác, Peng & cs. (2017) đã phân chia chiến lược sinh kế thành ba nhóm: Nông nghiệp, làm thuê trong nông nghiệp tại địa phương và lao động di cư. Cách phân loại chiến lược sinh kế trong nghiên cứu này được xác định dựa trên sự tổng hợp của các tiêu chí: thu nhập từ hoạt động sinh kế chính, mức độ phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, sự phân bổ lao động vào các hoạt động sinh kế chính của các hộ dân ở địa bàn nghiên cứu.
Rõ ràng, không có chiến lược sinh kế duy nhất mà là một loạt các chiến lược sinh kế. Vì vậy, vấn đề quan trọng là làm thế nào để lựa chọn hoặc giới thiệu các chiến lược đó phù hợp nhất với tình hình của các hộ gia đình nói riêng và tối đa hóa hữu ích của cả cá nhân và xã hội (Soussan & cs., 2001).
Như vậy, cần phân biệt chiến lược sinh kế và hoạt động sinh kế. Chiến lược mang tính chất dài hạn, có kế hoạch và sự đồng thuận hơn là các hoạt động tự phát, dựa vào kinh nghiệm và mang tính chất ngắn hạn. Chiến lược sinh kế bao gồm một loạt các hoạt động sinh kế. Ví dụ, đa dạng sinh kế hộ được phân tích dựa trên ba nguồn thu nhập chính từ sản xuất nông nghiệp và các hoạt động phi nông nghiệp. Chiến lược đa dạng sinh kế nông nghiệp được phân tích dựa trên các hoạt động canh tác chính, bao gồm: lúa, hoa màu, cây ăn trái, chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi trồng thủy sản (Võ Văn Tuấn & Lê Cảnh Dũng, 2015). Trong bối cảnh đô thị hóa tại nhiều vùng nông thôn, phần lớn người nông dân mất đất đã chuyển đổi chiến lược sinh kế từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Các chiến lược phi nông nghiệp của người dân rất đa dạng, có thể bao gồm một loạt các hoạt động như: kinh doanh nhà trọ, buôn bán nhỏ,…
c. Sinh kế hộ nông dân
Khái niệm hộ nông dân Theo Ellis (1993), ―Hộ nông dân là các nông hộ có phương tiện sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia đình trong sản xuất nông trại, nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia một phần trong thị trường hoạt động với một trình độ hoàn chỉnh không cao‖. Theo Đào Thế Tuấn (1996), ―Hộ nông dân là những người có phương tiện kiếm sống từ đồng ruộng, chủ yếu sử dụng lao động gia đình cho sản xuất, luôn nằm trong hệ thống kinh tế rộng hơn nhưng về cơ bản được đặc trưng bởi sự tham gia từng thành phần vào thị trường với mức độ hoàn hảo không cao‖.
Sinh kế có thể được xem xét ở các mức độ khác nhau, trong đó phổ biến nhất là sinh kế quy mô hộ gia đình. Sinh kế hộ nông dân dựa trên các nguồn lực con người, vốn xã hội (mạng lưới xã hội...), vốn thiên nhiên hay tài nguyên (rừng, mặt nước nuôi trồng thủy sản, nguồn lợi biển, sông ngòi, đất canh tác, đa dạng sinh học,...), vốn vật chất (nhà ở, công cụ sản xuất, phương tiện vận chuyển, cơ sở hạ tầng...), vốn tài chính (tiết kiệm, tín dụng, hàng hóa lưu chuyển,...). Các nguồn lực này quan hệ với nhau và có thể làm gia tăng khả năng tiếp cận các nguồn lực khác, chẳng hạn nếu như hộ có đất (có giấy chứng nhận pháp lý về quyền sử dụng đất) có thể vay mượn, thế chấp, cầm cố để có nguồn vốn tài chính phục vụ cho một mục tiêu kinh tế hay đời sống nào đó (Nguyễn Xuân Mai, 2007). Hộ có khả năng và tiếp cận các loại tài sản để thực hiện các sinh kế khác nhau. Các hộ nông dân được phân biệt bởi khả năng tiếp cận các nguồn lực. Các hộ sử dụng tài sản và khả năng của mình để tham gia vào nhiều chiến lược nhằm đảm bảo sinh kế của họ. Các chiến lược sinh kế khác nhau đem lại kết quả khác nhau và có thể bền vững hoặc không. Khi một hộ có thể đạt được một kết quả sinh kế mong muốn, điều này có tác động tích vực đến tài sản. Khi các hoạt động sinh kế có kết quả không mong muốn sẽ tác động tiêu cực đến tài sản cũng như khả năng tiếp cận tài sản của hộ (Rick de Satgé & cs., 2002).
d. Đặc điểm của sinh kế hộ nông dân
Với các đặc điểm của hộ nông dân, sinh sống chủ yếu tại các vùng nông thôn và có phương tiện kiếm sống từ ruộng đất, sinh kế hộ nông dân cũng có những đặc điểm cơ bản sau:
- Phần lớn chiến lược sinh kế của hộ nông dân gắn với nguồn tài nguyên thiên nhiên. Chiến lược sinh kế là một tập hợp các hoạt động và phương pháp thực hiện các hoạt động đó. Các hoạt động có thể gắn với nguồn tài nguyên thiên nhiên hoặc các hoạt động phi nông nghiệp. Đối với các hộ nông dân, chiến lược sinh kế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc thủy sản. Đây là các chiến lược trong đó các hoạt động đều gắn với tài nguyên thiên nhiên.
- Sinh kế hộ nông dân thường diễn ra trong bối cảnh bị tổn thương bởi các vấn đề như sốc kinh tế, thiên tai, sâu bệnh, xu hướng biến đổi tài nguyên,… Lasse Krantz (2001) đã cho rằng, cả người nghèo và người giàu đều mưu cầu sinh kế. Tuy nhiên, những người nghèo thường dễ bị tổn thương hơn dưới tác động của biến đổi khí hậu hay suy thoái tài nguyên. Do đó, chúng ta cần tập trung vào sinh kế của những người nông dân nghèo. Sinh kế hộ nông dân sẽ bền vững khi hộ có khả năng thích ứng hoặc chịu đựng được trong bối cảnh bị tổn thương; duy trì hoặc gia tăng các tài sản sinh kế; không hủy hoại hoặc gây suy thoái cơ sở tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, do đặc điểm về chiến lược sinh kế hộ nông dân thường gắn liền với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên và các hạn chế trong việc tiếp cận các loại tài sản khiến cho sinh kế hộ nông dân không bền vững và dễ bị tổn thương.
- Hộ nông dân thường bị hạn chế trong tiếp cận các tài sản sinh kế. i) Đối với nguồn vốn con người: Phần lớn lao động nông thôn vẫn là lao động nông nghiệp, đa số lao động có trình độ học vấn không cao. Đây chính là cản trở lớn đến việc tiếp nhận các loại khoa học kỹ thuật nhằm thâm canh, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng vụ, mở rộng quy mô sản xuất… Ngoài ra, điều kiện kinh tế thấp khiến tỷ lệ trẻ em nghỉ học cao, đặc biệt ở các tỉnh miền núi. Sự tiếp cận tới các dịch vụ y tế, cải thiện sức khỏe con người cũng hạn chế do khoảng cách tới trung tâm y tế huyện, tỉnh còn xa và nhận thức của người nông dân về bệnh tật chưa cao. ii) Đối với nguồn vốn vật chất, cơ sở hạ tầng khó khăn là cản trở lớn nhất: Đường giao thông còn nhiều khó khăn, hệ thống nước sạch nông thôn còn thiếu, nhiều hộ nông dân ở vùng sâu, vùng xa chưa tiếp cận được mạng lưới điện, hệ thống truyền thông, việc vận dụng máy móc hiện đại vào sản xuất còn nhiều hạn chế do trình độ sử dụng của người nông dân thấp,… iii) Thiếu vốn tài chính là rào cản lớn đối với việc mở rộng quy mô sản xuất, tăng năng suất cây trồng. Mức vay bình quân từ các ngân hàng thấp, nguồn vốn mà hộ nông dân dễ