mang thêm. Từ Thăng Long toả đi các nơi có cả các hệ thống đường thuỷ, bộ; nhất là trên các đường sông và ven biển đã có nhiều thuyền lớn đi lại tấp nập.
Trong giai đoạn này, "có thể nói, bộ mặt kinh tế của nước Đại Việt đã phát triển với một sinh lực dồi dào và đạt đến trình độ khá cao”[26, 134].
Vấn đề ruộng đất là vấn đề quan trọng bậc nhất không chỉ trong thời kì này mà ở các thời kỳ sau này của xã hội phong kiến Việt Nam. Đối với quốc gia phong kiến như Đại Việt thời Lý Trần có nền kinh tế là nông nghiệp lúa nước thì cơ sở tạo nên chế độ kinh tế đó chính là chế độ sở hữu ruộng đất. Đặc điểm của quan hệ sản xuất của chế độ phong kiến Việt Nam nói chung và của thời kỳ Lý – Trần nói riêng là chế độ sở hữu ruộng đất của nhà nước. Những hình thức chia ruộng gồm có các loại ruộng công làng xã, điền trang thái ấp, ruộng tư và ruộng của nhà chùa; nhưng hình thái tư hữu về ruộng đất cũng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong chế độ sở hữu lúc bấy giờ.
Chế độ sở hữu ruộng đất thuộc về nhà nước có liên quan trực tiếp tới chế độ canh tác dựa trên cơ sở thuỷ lợi. Dân tộc Việt Nam từ trước đều gắn với nền nông nghiệp lúa nước. Nhận biết được sự cần thiết của vấn đề thuỷ lợi, nhà Lý vào năm 1108 đã huy động nhân dân đắp đê Cơ Xá và đặc biệt là công trình đắp đê Đỉnh Nhĩ hay còn gọi là đê Quai vạc dưới thời Trần.
Chính hình thức sở hữu ruộng đất của nhà nước đã quy định địa vị và quan hệ qua lại của các tầng lớp xã hội trong sản xuất , quy định hình thức phân phối sản phẩm của xã hội trong xã hội phong kiến. Hay nói cách khác, chế độ này khiến cho sự phân hoá giai cấp hình thành nhưng sự hình thành của giai cấp địa chủ chưa thực sự mạnh mẽ như dưới thời Trần. Đầu thời Trần , chế độ tư hữu về ruộng đất càng ngày càng gia tăng. Thời kỳ này, nhà nước cho phép bán ruộng đất công thành ruộng đất tư. Thích hợp với quan hệ kinh tế đó là một xã hội có kết cấu giai cấp còn tương ứng. Giai cấp phong kiến thống trị là tầng lớp quý tộc và quan liêu, đại biểu là vua nắm quyền hành trong triều đình và xã hội. Tiếp đó là tầng lớp địa chủ lúc đầu còn ít nhưng về sau tăng dần lên.
Tăng lữ cũng là tầng lớp xã hội đáng kể và là lực lượng đông đảo từ cuối Bắc thuộc đến đầu thời Trần. Nhà nước đã dùng tầng lớp này và tầng lớp Nho sĩ mới xuất hiện để duy trì sự ổn định xã hội và củng cố quyền lực triều đình. Xuất hiện tầng lớp trí thức, chủ yếu bao gồm nhà sư và nhà Nho. Nhà sư trưởng thành từ hai dòng thiền Tinida lưu chi và Vô ngôn thông. Nhà Nho trưởng thành từ giáo dục – khoa cử Nho học và trong đó có nhiều người tham gia bộ máy hành chính của nhà nước phong kiến quân chủ. Các nhà sư còn học cả các kinh sách của Nho giáo, của Đạo gia.
Đông đảo quần chúng nhân dân bị thống trị bao gồm nông dân các làng xã lĩnh canh công điền, công thổ hoặc ruộng của địa chủ , nông nô, nô tỳ, thợ thủ công, lái buôn,...
Một điều đáng chú ý ở thời kỳ này là sự trưởng thành của tầng lớp địa chủ và tầng lớp nho sĩ. Sự trưởng thành này diễn ra trên cơ sở chế độ đại điền trang dần dần nhường bước cho chế độ tư hữu ruộng đất. Nó làm cho cơ cấu bộ máy nhà nước phong kiến từ thời Lý tới Trần có nhiều thay đổi lớn. Nho sĩ dần dần thay thế những chức vụ quan trọng của nhà nước mà trước đó do tầng lớp quý tộc nắm giữ. Đến cuối thời Trần, tầng lớp nho sĩ quan liêu cũng đã trở thành chỗ dựa cho nhà vua trong việc trị nước.
Xã hội Đại Việt từ thế kỷ X trở đi, nhất là thời Lý - Trần, kinh tế thương nghiệp phát triển lên một bước đáng kể,có những thành tựu rực rỡ. Tiền tệ xuất hiện và sử dụng rộng rãi. Giao thông vận tải luôn được cải tạo và mở rộng, góp phần tích cực cho ngoại thương phát triển.
Từ trước, thuyền buôn các nước phương Nam và phương Tây như Diệp Điều (Gia va), Thiện (Miến Điện), Thiên Túc (Ấn Độ), An Tức (I răng), Đại Tấn (Đông La Mã) đều đã qua lại buôn bán trên vùng biển nước ta. Đến thời Lý - Trần, thuyền buôn các nước không những chỉ có qua lại ghé đậu mà còn thực sự buôn bán trực tiếp với nước ta [29, 185]. Buôn bán giữa Đại Việt và các nước khác lúc đó không chỉ là sự giao lưu kinh tế, mà kéo theo đó là giao
Có thể bạn quan tâm!
- Ảnh hưởng của dung thông tam giáo đến tình hình chính trị - Xã hội ở Việt Nam thời Lý – Trần - 1
- Những Tiền Đề Tư Tưởng Cho Sự Dung Thông Tam Giáo Nho – Phật – Đạo
- Ảnh hưởng của dung thông tam giáo đến tình hình chính trị - Xã hội ở Việt Nam thời Lý – Trần - 4
- Ảnh hưởng của dung thông tam giáo đến tình hình chính trị - Xã hội ở Việt Nam thời Lý – Trần - 5
Xem toàn bộ 80 trang tài liệu này.
lưu văn hóa, tôn giáo. Chắc chắn Đại Việt lúc đó phải có sự giao lưu Phật giáo trong nước và khu vực, đặc biệt với các nước láng giềng: Trung Quốc, Chiêm Thành và xa hơn nữa là: Tây Vực, Miến Điện, Gia va, Ấn Độ... Năm 1187, “Có nhà sư Tây Vực đến. Vua xuống chiếu hỏi vua ấy có tài năng gì, trả lời có tài sai bảo được hổ. Bảo thử tài, không hiệu nghiệm "[5, 878]. Năm 1311, “Lấy con gái của sư người Hồ là Chu Di Bà Lam vào cung. Nhà sư này đời Nhân Tôn đã sang nước ta...” [5,526].
Dưới thời Trần, Tá Thánh thái sư Chiêu Văn Vương Nhật Duật là người rất giỏi, thường giao lưu với nước ngoài, am hiểu phong tục các nước, lại nói được tiếng các nước: Lại đến chơi chùa Tường Phù, nói chuyện với sư người Tống, ngủ lại rồi về. Phàm là người nước ngoài đến kinh sư, thường kéo đến chơi nhà, nếu là người Tống thì ngồi nghế đối nhau, đàm luận suốt ngày, là người Chiêm hay người Man khác đều theo quốc tục của họ mà tiếp đãi [5, 558].
Đặc biệt, quan hệ ngoại giao giữa Đại Việt và Tống đã tạo điều kiện để du nhập kinh Phật từ Trung Quốc, làm cho Phật pháp phát triển. Các nhà sư Đại Việt lúc đó cũng chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng thiền Tông Trung Quốc. Chẳng hạn như phái thiền Vô Ngôn Thông thời Lý, phái Thảo Đường, phái Trúc Lâm Yên Tử là những phái chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Trung Hoa.
Cùng với nền chính trị độc lập nêu cao ý chí tự lực tự cường, nền kinh tế có bước phát triển đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, Đại Việt có một nền văn hoá phát triển tương thích. Văn hoá Đại Việt thời Lý - Trần để lại một dấu ấn khá đậm trong tiến trình phát triển lịch sử dân tộc. Như Lê Quý Đôn đã nhận định “Nước Nam ở hai triều Lý - Trần nổi tiếng là văn minh.”
Nền giáo dục Nho học có tính chất thế tục do nhà nước phong kiến quản lý đã xuất hiện, khác hẳn với nền giáo dục của nhà chùa. Điều này có tác động trực tiếp vào sự hình thành của đội ngũ trí thức dân tộc và sự tuyển lựa nhân lực cho bộ máy quan liêu; ảnh hưởng cả đến thế giới quan và những quy phạm
chính trị, đạo đức con người và hơn thế là phong cách tư duy trong sáng tác văn học , nghệ thuật.
Thời kỳ này giáo dục được chú ý phát triển, thi cử được tiến hành để tuyển người tài bổ sung vào hàng ngũ quan lại giúp việc cho triều đình .
Trên lĩnh vực văn học, nhiều áng thơ văn đặc sắc đã xuất hiện. Bên cạnh những bài thơ và văn bia xoay quanh các chủ đề của đạo Phật là những áng văn chính luận nổi tiếng phản ánh công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong đó, tiêu biểu là bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn. Đến thời Trần, hoạt động thơ văn diễn ra rất sôi nổi, đặc biệt thời kỳ này chữ Nôm đã được vận dụng rộng rãi. Chủ đề thơ văn thời kỳ này không những xoay quanh những vấn đề của đạo Phật mà còn cả của đạo Nho và nhất là của đời sống hiện thực. Chữ Nôm được đưa vào sử dụng đồng thời với chữ Hán tạo nên sự phong phú trong các sáng tác đương thời, đạo Phật cũng nhờ đó mà phát triển và ảnh hươngr rộng rãi vào trong nhân dân. Chữ Hán không thoả mãn được nhu cầu quảng đại của quần chúng nhân dân. Chữ Nôm xuất hiện (có thể đã được dùng khá phổ biến thời Trần) để ghi âm tiếng nói dân tộc, giảm bớt sự phức tạp của chữ Hán và cùng chữ Hán đáp ứng rộng rãi hơn nữa nhu cầu của xã hội. Tác phẩm Khoá hư lục của Trần Thái Tông được ít người biết đến bởi sáng tác bằng chữ Hán, sau này Tuệ Tĩnh phải giải nghĩa bộ Kinh này bằng quốc âm để phổ biến rộng rãi trong tín đồ của đạo Phật. Tác phẩm Cư trần lạc đạo của Trần Nhân Tông được viết bằng chữ Nôm nên phổ biến rộng rãi, giúp cho tư tưởng Phật giáo đến gần với quảng đại quần chúng.
Mặt khác, sự ra đời và sử dụng phổ biến chữ Nôm thể hiện tinh thần tự chủ của dân tộc Đại Việt. Chữ Nôm là sản phẩm của văn hoá Đại Việt nhằm phục vụ cho văn hóa Đại Việt. Không giống như chữ Hán được truyền bá từ phương Bắc và ban đầu nó mang tính chất áp đặt, do người Hán sang xâm lược đem theo.
Thời kỳ này, văn học nghệ thuật đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Do sự phát triển chữ Nôm, bên cạnh ngôn ngữ vay mượn là chữ Hán nên văn học
thời Lý - Trần đã có nhiều tác phẩm có giá trị. Các tác phẩm văn học thời kỳ này phản ánh tinh thần dân tộc, phát huy cao độ tính độc lập, tự chủ, tự cường của một thời được gọi là “hào khí Đông A”. Có những tác phẩm tiêu biểu như: bài “Nam quốc sơn hà" được xem là tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước; “Hịch tướng sĩ”, bài “Phú sông Bạch Đằng”... với các tác giả lớn như: Trần Quang Khải,Trần Quốc Tuấn, Trương Hán Siêu...Bên cạnh nêu cao tư tưởng yêu nước, tự hào dân tộc, thơ văn Lý - Trần còn ca ngợi cảnh thiên nhiên giàu đẹp như:
Sáng dậy mở cửa sổ Xuân đi nào có hay
Một đôi bươm bướm trắng Phất phơ lướt hoa bay
(Dịch thơ Trần Nhân Tông)
Một bộ phận không nhỏ đóng góp cho văn thơ Lý Trần là lực lượng những tác gia là các nhà sư. Làm những bài kệ hầu như là sở thích, thói quen của các nhà sư thời kỳ này. Thậm chí, đối đáp nhau họ còn dùng thơ. Trong Thiền uyển tập anh, hầu như nhà sư nào trước khi thoát xác, họ cũng đọc một bài kệ để lại cho đệ tử của mình. Nội dung chủ yếu của các bài kệ mang đậm màu sắc Phật giáo. Các tác phẩm ấy cũng không tách khỏi tinh thần của thời đại.Thời Lý - Trần cũng để lại nhiều văn bia dài, nhiều bài phú hay như: Đông hồ bút, Trảm xà kiếm, Ngọc tỉnh liên, Thiên Hưng trấn...Ngoài ra, thể loại truyện cũng ra đời như Báo cực truyện, Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Nam ông mộng lục..Hai tác phẩm “Việt điện u linh”, “Lĩnh Nam chích quái” hiện nay trở thành tư liệu quý để chúng ta tìm hiểu về tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam giai đoạn này.
Thời kỳ này, các ngành nghệ thuật sân khấu, ca vũ nhạc cũng có những tiến bộ đáng kể, đã xuất hiện một số loại hình ca kịch như ả đào, chèo, tuồng,.. Đặc biệt là thành tựu về kiến trúc và điêu khắc. Tiêu biểu là Văn Miếu, chùa
Một Cột, chùa Keo,… của thời Lý; đến nhà Trần, có cổ tháp Bình Sơn, chùa Phật Tích, tháp Báo Thiên,…
Ngoài ra, thời kì này còn đánh dấu sự xuất hiện của sử học. Đáng chú ý nhất là bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu
Một số ngành như thiên văn, lịch pháp, y học của dân tộc đã xuất hiện và có những thành tích đáng chú ý với đại biểu như Đặng Lộ và Trần Nguyên Đán trong lĩnh vực lịch pháp; hay nhà y học và dược học lỗi lạc là Tuệ Tĩnh.
Chúng ta còn biết khoa học kĩ thuật thời Trần đã chế tạo súng thần công.Hồ Nguyên Trừng là người nắm vững kĩ thuật đó. Theo Trần Quốc Vượng - Hà Văn Tấn:
Ngày nay, chúng ta còn được đọc những điều ghi chép về các máy tự động thời Lý. Bia Sùng thiện diên linh ở núi Đọi (Hà Nam, dựng năm 1121) có chép về máy Kim Ngao:
“Ngày trung thu và ngày Tết, vua (Nhân Tông) ngự ở điện Linh Quang trên bờ sông Lô. Dưới sông hàng nghìn thuyền gióng trống đua bơi. Ở giữa sông, một con rùa vàng nổi, lưng đội ba hòn núi. Rùa lội lờ đờ trên mặt nước, lộ vân trên vỏ và soải bốn chân. Chuyển mắt nhìn lên bờ, miệng thì phun nước lên bến. Quay đầu hướng tới ngai vua mà cúi chào”. Bia Sùng thiện diên linh còn tả máy đèn quay và người máy đánh chuông. Lý Nhân Tông đặt hội đèn Quảng Chiếu:“dựng đèn Quảng Chiếu ngoảnh ra cửa Đoan Môn. Giữa nêu một cột, ngoài đặt 7 tầng. Rồng uốn mà nở toà sen vàng, rèm lồng mà che đèn sáng rực. Có máy dấu kín dưới đất, làm đài quay như bánh xe. Lại có 2 toà lầu hoa. Treo quả chuông đồng, tạc chú tiểu mặc áo cà sa, vặn mày kín thì giơ dùi đánh. Nghe tiếng sáo liền quay mặt lại. Trông bóng vua lại biết cúi đầu. Tựa như có trí khôn, biết khi động, khi tĩnh” [35, 334-335]
Tóm lại, những lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hoá tinh thần thời kỳ Lý – Trần bị chi phối sâu sắc bởi cả Nho giáo, Phật gíao và Đạo giáo.
1.2 Những nhiệm vụ chính trị thực tiễn đặt ra
Từ năm 938, chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng đã chấm dứt hàng ngàn năm thời Bắc thuộc và mở ra kỷ nguyên độc lập, tự chủ của dân tộc. Trong thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo được đưa vào nước ta chủ yếu là theo vó ngựa quân xâm lược, đóng vai trò là công cụ của giai cấp thống trị nhà Hán trong âm mưu đồng hoá dân tộc ta, cho nên thái độ nhân dân ta là phản ứng lại Nho giáo nhằm bảo vệ, khẳng định nền độc lập và chủ quyền đất nước, bảo tồn nòi giống, tín ngưỡng, phong tục và di sản văn hoá cổ truyền của dân tộc. Trong thời gian đó, Phật giáo được du nhập và được nhân dân tiếp nhận rộng rãi, nó góp phần vào việc khôi phục chủ quyền đất nước. Điều này lý giải vai trò nổi bật của Phật giáo trong ba triều đại: Ngô - Đinh - Tiền Lê (thế kỷ X - XI). Tuy nhiên, Phật giáo được vận dụng vào cai trị đất nước khó lòng thiết lập trật tự, kỷ cương một cách có hiệu quả, vì vậy, từ khi đất nước độc lập, đặc biệt là từ thời Lý, Nho giáo dần được nhà nước phong kiến Việt Nam thừa nhận và chú trọng phát triển. Đó không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà nó xuất phát từ những nhu cầu tổ chức, quản lý xã hội đặt ra lúc bấy giờ, đó là:
Trước hết, việc chú trọng phát triển Nho giáo xuất phát từ nhu cầu xây dựng và phát triển bộ máy chính quyền nhà nước quân chủ quý tộc lớn mạnh và nhu cầu thiết lập trật tự kỷ cương xã hội, ổn định đời sống nhân dân, đảm bảo nền độc lập dân tộc Ngay từ khi được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột của chính quyền đô hộ vào thế kỷ thứ X, việc xây dựng nhà nước phong kiến tập quyền đã được đặt ra. Bộ máy hành chính đô hộ cũ bị xoá bỏ, được thay thế bằng bộ máy chính quyền độc lập, tự chủ đối với phương Bắc và được hoàn thiện dần. Khác với họ Khúc, họ Dương, Ngô Quyền đã lập ra một nhà nước riêng biệt mà tính chất căn bản của Nhà nước đó là một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền.
Tuy nhiên, dưới các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, công việc đó mới chỉ làm được những bước đầu tiên và chưa được đẩy mạnh. Những gì mà các vương triều đạt được trong thời gian này cũng chỉ như một bước đi đầu tiền cho sự phục hưng quốc gia Đại Việt, nền văn hoá dân tộc đạt được cũng chỉ dừng lại ở những yếu tố mang tính chất khởi động, bản lề. Mặt khác, chế độ phong kiến ấy chưa hoàn toàn vững chắc, trong lòng nó còn chứa đựng nhiều mầm mống, nguy cơ làm cho chế độ đó suy yếu và tan rã. Cung cách cai trị, quản lý xã hội của các ông vua trong thời kỳ này là khá tuỳ hứng, mang vóc dáng của một thủ lĩnh hữu dũng mà chưa thấy ở họ những mưu tính, những kế sách lâu dài cho dân tộc, chưa có ở họ tầm vóc của một vị Hoàng đế và một triều đại với điển chế hoàn bị. Không những thế, qua Đại Việt sử ký toàn thư, các ông vua thời kỳ này còn tuỳ ý sử dụng hình phạt hết sức tàn khốc trong việc cai trị và bảo vệ ngai vàng. Ở họ, thiếu hẳn đi một đường lối, một lý luận cai trị làm nền, làm cái căn bản. Chế độ sở hữu ruộng đất - cơ sở kinh tế của chế độ phong kiến, ít nhiều chứa đựng trong bản thân nó những yếu tố phân tán và đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng rối loạn, đe doạ sự ổn định xã hội và sự thống nhất đất nước. Nạn 12 sứ quân cát cứ các vùng diễn ra sau thời Ngô, nạn phế lập liên tục xảy ra trong các triều đại ấy là những minh chứng cho điều này. Trong khi đó, nạn lũ lụt ở đồng bằng sông Hồng, thiên tai diễn ra hàng năm đe doạ đến sản xuất và đời sống đòi hỏi phải tập hợp trí tuệ và lực lượng của dân tộc để khắc phục.
Ngoài ra, mặc dù đất nước đã được độc lập, nhưng nạn ngoại xâm vẫn thường xuyên xảy ra đe doạ nền độc lập và chủ quyền quốc gia, đòi hỏi phải tập hợp, đoàn kết và động viên sức mạnh của toàn dân tộc để đối phó thành công. Tình hình trên đặt ra một yêu cầu khách quan là phải xây dựng, củng cố và phát triển chế độ phong kiến trung ương tập quyền, phải tập trung và thống nhất quyền lực chính trị vào một dòng họ có thế lực, có sức mạnh. Nhưng để xây dựng và phát triển chế độ phong kiến trung ương tập quyền mạnh mẽ, duy