Vai Trò Của Chế Độ Thực Dân Pháp Trong Lĩnh Vực Văn Hóa - Giáo Dục

địa lý, tập quán cư trú, tâm lý tộc người và lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam (mở rộng lãnh thổ, thường xuyên đối mặt với tham vọng bành trướng lãnh thổ …), đặc điểm này của Việt Nam trong mối quan hệ văn hóa với bên ngoài, đến thế kỷ XIX được thể hiện rõ ràng trong quan hệ văn hóa với phương Tây trên nhiều lĩnh vực, trong đó có giáo dục.

Khi chiếm được Nam Kỳ, De La Grandière, Lemyre de Viler, có cùng quan điểm với giáo sỹ và thương nhân, đã từng nảy sinh ý định xóa bỏ lập tức nền Nho học ở Nam Kỳ để thay bằng nền giáo dục mới được mang đến từ phương Tây. Kẻ xâm lược đã không nhận ra rằng: khác hoàn toàn với những đối tượng mà họ đã từng chinh phục ở châu Phi hay các khu vực khác; ở đất nước mà họ vừa đánh chiếm, người ta đã kiến lập từ lâu đời những giá trị văn hóa bền vững, lại tha thiết gìn giữ truyền thống. Mọi mưu toan áp đặt thô bạo văn hóa từ bên ngoài đã nhận lấy sự thất bại, đối với người Pháp, điều này cũng không ngoại lệ. Mặc dù chủ quyền quốc gia của người dân nước này đã bị tước đoạt nhưng kẻ thù hãy còn rất xa với mục tiêu “chinh phục tinh thần” vì gặp phải chướng ngại từ thái độ bất hợp tác và không ngừng chống lại của dân chúng. Do đó, sự vội vàng ban đầu của chính quyền thực dân đã được thay thế bằng bước đi cẩn trọng hơn ở Nam Kỳ lẫn Bắc và Trung Kỳ. Chương trình học theo Quy chế 1874 và Quy chế 1879 được áp dụng ở Nam Kỳ (cho đến năm 1917) trong khi dành ưu thế tuyệt đối cho tiếng Pháp và các môn học thuộc nền giáo dục phương Tây thì chữ Hán và chữ Quốc ngữ Latin vẫn có một vị trí nhất định gắn với nội dung Nho học và dù rất khó chịu trước sự tồn tại của trường Nho học nhưng nhà cầm quyền Pháp, trong hai bản Quy chế nêu trên, đã cho phép các trường học của thầy đồ được tự do thành lập mà không cần phải xét đến các điều kiện về đạo đức và khả năng như quy định đối với các trường tư. Dù diễn ra trong hoàn cảnh “Nước Annam công nhận và chấp nhận sự bảo hộ của nước Pháp” (Hiệp ước Patenôtre) nhưng các vị Tổng Khâm sứ, Toàn quyền Đông Dương khi tiến hành cải cách, điều chỉnh giáo dục đã gạt ra ngoài những khuyến dụ phế bỏ chữ Hán và Nho học của các giáo sỹ thừa sai mà, do tác động của khuynh hướng liên hiệp (assocation) và kinh nghiệm có được ở Nam Kỳ, đã chú ý đến đối tượng tiếp nhận và yếu tố văn hóa truyền thống. Điều này lý giải cho sự tồn tại của chữ Hán và chữ Quốc ngữ, tuy thời lượng không nhiều nhưng ổn định, trong các chương trình học; cho quyết định của Toàn quyền Albert Sarraut trong thông tri đề ngày 20/3/1918, được Toàn quyền Martial Merlin tái xác nhận trong Nghị định ngày 18/9/1924: tiếng Việt là ngôn ngữ chủ yếu ở lớp Đồng ấu và lớp Dự bị, tiếng Pháp sẽ bắt dạy từ lớp Sơ đẳng, để thay cho quy định về ngôn ngữ ở bậc Tiểu học trong chương trình học do Toàn quyền Klobukowsky ban hành (1910) và Điều 134

của Học chính Tổng quy (1917); cho sự tồn tại đồng thời 3 loại trường ở bậc Tiểu học: Sơ học bản xứ, Sơ đẳng Tiểu học, Tiểu học Toàn cấp và Nghị thành lập lớp Trung đẳng Đệ nhất niên (1927); và ở bậc Trung học, là sự tồn tại của Việt văn và Hán văn trong chương trình Tú tài bản xứ bên cạnh các môn được dạy hoàn toàn bằng tiếng Pháp theo chương trình Tú tài Tây.

Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ và nhiều sỹ phu Nho học khác đã từng ước mong triều đình sẽ tiến hành cải cách nền giáo dục theo kiểu phương Tây để đất nước có đủ sức mạnh chống lại hành động xâm lược của thực dân Pháp nhưng vì nghi kỵ, thiếu quyết đoán và những chuyển biến bất ngờ của tình hình chiến sự, vua Tự Đức đã phụ những tấc lòng luôn trăn trở về vận nước. Khi ưu thế quân sự và sự xác lập nền thống trị đã mang đến cho người Pháp quyền chủ động thiết lập nền giáo dục theo mô hình chính quốc, tức là nền giáo dục phương Tây đã hiện diện ở Việt Nam, thì đến lượt dân chúng, vì tinh thần phản kháng, đã từ chối tiếp cận với trường học của quân xâm lược, vẫn tiếp tục theo các thầy đồ học Kinh Thư Thánh hiền để, nếu không tiến thân theo con đường khoa cử thì cũng tự hào đã trọn đạo trung quân. Sau nhiều lần cải cách, nền giáo dục Pháp - Việt đã chứa đựng nhiều yếu tố “bản xứ” để phù hợp với đối tượng tiếp nhận là người Việt. Điều này dẫn đến hệ quả là: xã hội Việt Nam phải chứng kiến thời buổi “thi tàn học cũng tàn theo” (Trần Tế Xương) và người dân tự nguyện từ bỏ Ngũ Điển Tam phần, chấp nhận nền giáo dục mới. Đến đầu thế kỷ XX, Tân thư, Tân văn và sự hùng cường của Nhật Bản đã tạo nên sự chuyển đổi trong nhận thức của các sỹ phu. Lúc này, tầng lớp cựu học lại lên án Nho học, nồng nhiệt mở đường cho tân học và tuy thời gian tồn tại không lâu nhưng phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa thục đã “cảnh tỉnh nhân dân và thúc đẩy nhà cầm quyền phải sửa đổi chính sách theo Tân học mà bỏ khoa cử” [108, tr.156]. Như vậy, khi đối mặt với sự du nhập của nền giáo dục đến từ phương Tây, có triết lý hoàn toàn khác với Nho học, dân tộc Việt Nam đã tránh được hai cực đoan: lĩnh hội đến mức rập khuôn và đề kháng đến mức bảo thủ. Người Pháp tiến hành cải cách giáo dục vì mục tiêu tạo lập sự ổn định của nền cai trị, còn sự thay đổi thái độ đối với nền giáo dục mới của sỹ phu Việt Nam lại phát xuất từ lý tưởng khai sáng dân tộc. Dù thế nào đi nữa, nền giáo dục Pháp - Việt cũng đã trở thành một bộ phận của văn hóa Việt Nam.

3.3. Vai trò của chế độ thực dân Pháp trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục‌


Được xác định dứt khoát bằng Hiệp ước Patenôtre (6/6/1884), chủ quyền độc lập của nước Đại Nam đã bị triều Nguyễn từ bỏ, thay vào đó, đất nước này đặt dưới sự bảo hộ của thực dân Pháp. “Sau khi người lính đã hoàn thành sự nghiệp của mình thì đến lượt người giáo viên thực hiện sự nghiệp của họ” [dẫn theo 106, tr.35]. Sự nghiệp “chinh phục tinh thần” của người Pháp đã tạo nên nhiều thay đổi trong lĩnh vực giáo dục, đồng thời văn hóa Việt Nam cũng có thêm nhiều yếu tố mới đến từ phương Tây.

Phát xuất từ yêu cầu của việc cai trị và những nhận thức khác nhau về tình hình Việt Nam, các Đô đốc, Toàn quyền Pháp đã có những chủ trương khác nhau trong việc tổ chức nền giáo dục Phổ thông thay cho nền Nho học hiện đang tồn tại. Đã có lúc các sỹ quan Pháp định xóa bỏ việc học chữ Hán, phủ nhận chương trình Nho học nhưng rồi họ cũng nhận ra rằng: phong tục, ngôn ngữ, luật pháp của một dân tộc không thể dễ dàng thay đổi; phải dùng cả chữ quốc ngữ, chữ Hán để phổ biến khoa học, làm cho nền văn minh của nước Pháp thâm nhập vào dân chúng [9, tr.45-46]. Sự cẩn trọng đã thay thế cho thái độ vội vàng. Người Pháp đã từng bước xây dựng được một chương trình học toàn diện nhằm mang đến cho học sinh những hiểu biết về đất nước, con người, cách ứng xử và những tri thức thuộc về khoa học thường thức gắn liền với các môn học như Toán pháp, Luân lý, Quốc văn, Sử ký, Địa dư, Cách trí, Vệ sinh, Triết học … được quy định cụ thể về nội dung, thời lượng. Chương trình học cũng lưu giữ lại một số nội dung của nền Nho học như việc giảng dạy trong một chừng mực nhất định các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh và nhiều tác phẩm chữ Hán khác. Không còn vẻ huy hoàng trong quá khứ, nền Nho học của thế kỷ XIX đã trở thành lực cản của sự phát triển xã hội, lỗi thời về nội dung và phương pháp. Tầng lớp sỹ phu có thể là hình mẫu đạo đức, trọn đạo trung quân nhưng lại không hữu dụng trong việc phát triển khoa học kỹ thuật, mở mang kinh tế, dựng xây tiềm lực quốc phòng để đất nước đủ khả năng đối mặt với âm mưu và hành động xâm lược của thực dân phương Tây. Trong khi đó, chương trình học của Pháp, tuy nặng nền nhưng có phạm vi rộng, đã đáp ứng được yêu cầu nhận thức lẫn thực nghiệp đối với người học. Từ lợi thế này, chương trình mới đã dần thay thế những nguyên lý Khổng - Mạnh; nền giáo dục Việt Nam tách khỏi ảnh hưởng của Trung Hoa, mang diện mạo hoàn toàn mới: “Trường học được lập và tổ chức theo mô hình hiện đại, vận hành theo kiểu công nghiệp: học chính quy, được tổ chức chặt chẽ theo hệ thống ngành dọc, giống như nhà máy - tập trung và đúng giờ giấc; chương trình học theo từng cấp,

từng hệ, tương đối được thống nhất, với phương pháp giảng dạy được đưa vào từ chính

22

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 146 trang tài liệu này.

quốc. Việc bỏ chữ Hán, để thay bằng tiếng Pháp và một phần chữ Quốc ngữ21F sẽ thay đổi dần lối tư duy và những kiến thức rập khuôn, có sẵn trong sách vở, cũng có nghĩa là tiếp cận với những tư tưởng và nền văn minh phương Tây hiện đại …, học sinh chuyển từ lối học thụ động sang lối học chủ động, tích cực. (…) Học không viển vông như trước mà mang tính chất thực tiễn nhiều hơn. Tinh thần khoa học làm thay đổi phương pháp tư duy và lối sống của học sinh … mở ra một chân trời mới lạ cho thanh niên Việt Nam” [dẫn theo 44, tr.5-6].

Những thay đổi trong giáo dục đã tác động đến nền văn hóa Việt Nam. “Nhờ những cải cách giáo dục, số người biết đọc tăng lên, tạo cơ hội cho sự phát triển của báo chí. Giáo dục tạo đà cho sự phát triển của văn học, báo chí, trở thành cốt lõi văn hóa” [dẫn theo 44, tr.6]. Trưởng thành từ nhà trường Pháp - Việt, các trí thức Tân học đã tiếp nhận những giá trị của hệ tư tưởng Khai sáng về tự do, bình đẳng, bác ái … và sau khi vượt qua những trở ngại, tiếng Pháp, ngôn ngữ chính trong học đường, trở thành phương tiện để trí thức Việt Nam tiếp xúc trực tiếp với các hệ tư tưởng mới của thời đại, để văn hóa Việt Nam giao lưu với văn hóa Pháp và phương Tây. Như vậy, thông qua trường học (và những con đường khác), “Trước hết, lớp văn hóa phương Tây mang đến cho văn hóa Việt Nam những giá trị mới như tự do, bình đẳng, dân chủ … là những giá trị nhân văn thuộc về con người phổ quát mà tư tưởng Ánh sáng nêu ra. Sau đó, nó giúp người Việt phát triển được ý thức cá nhân, coi cá nhân không đối lập mà hỗ trợ cho sự phát triển của xã hội. Chính sự thức tỉnh của ý thức cá nhân đã là một trong những động lực phát triển của văn hóa giai đoạn này” [dẫn theo 102, tr.58].

Yếu tố Pháp - Việt trong lĩnh vực cải cách giáo dục ở Việt Nam thời kỳ 1862 - 1945 - 13

Qua những lần cải cách, điều chỉnh của nhà cầm quyền Pháp, ranh giới của giáo dục Pháp - Việt và giáo dục chính quốc đã từng bước được xóa nhòa. Dù vậy, báo Trung Bắc Tân Văn Chủ nhật (1945) vẫn đặt nghi vấn: “Có thực người Pháp đã trông nom đến sự học ở xứ này không? Cơ quan duy nhất họ đặt về sự học ở trong nước ta là Nha Học chính. Họ trắng trợn thi hành chính sách phá hoại căn bản ta. Chỉ có Học chính mà không có giáo dục

… Không cần phải nhiều lời, ai cũng đã rõ là cái trường học ở xứ này chỉ để đào tạo ra một thế hệ nô lệ đầy dục vọng và dễ sai” [dẫn theo 43, tr.223]. Trên các diễn đàn quốc tế, Nguyễn Ái Quốc cũng có những tố cáo tương tự: “người Pháp không tổ chức một nền giáo dục mới để thay thế cho nền giáo dục An Nam. Họ chỉ xây dựng một ít trường học để đào


22 Thực ra, ý định phế bỏ hoàn toàn chữ Hán của giáo sĩ, thương nhân, Đô đốc De La Grandière, Lemyre de Viler đã không trở thành hiện thực. Trong các quy chế giáo dục được áp dụng ở Nam Kỳ (cho đến năm 1917) và các chương trình học do Toàn quyền Paul Beau, Klobukowsky, Albert Sarraut … ban hành đều dành cho chữ Hán một vị trí nhất định, tuy không nhiều nhưng ổn định về thời lượng.

tạo ra những con vẹt, những người vong bản thiếu đạo đức và thiếu cả kiến thức phổ thông” [dẫn theo 106, tr.88]. Những nhận định này phát xuất từ nội dung học tập và số học sinh đến trường. Trong các trường Pháp - Việt, học sinh được tiếp xúc nhiều với văn chương và lịch sử Pháp, được dạy nhiều về “sự khai hóa của Pháp ở An Nam” [xem 106, tr.94] và định hướng nhìn nhận những cuộc khởi nghĩa của dân chúng là bạo loạn giặc cướp. Tạp chí Nam Phong (1919) đã bày tỏ sự lo lắng: “Trong các trường trung học, người ta không dạy cho học trò Nam sử và Việt văn, người ta dạy lịch sử Pháp và văn chương Pháp. Bởi thế cho nên những học sinh ta sau khi tốt nghiệp hay đã thôi học không biết tí gì về nước mình, người ta đã làm cho họ hóa ra người ngoại quốc” [dẫn theo 106, tr.94-95]. Cuối niên khóa 1941- 1942, theo số liệu của Annuaire statistique de l’ I-C, Việt Nam có 3 trường Trung học, 16 trường Cao đẳng Tiểu học, tuyệt đại đa số học sinh là ở bậc Tiểu học, mà chủ yếu thuộc trình độ Sơ đẳng, chiếm 88,18%; 1% ở bậc Cao đẳng Tiểu học và chỉ 0,12% ở bậc Trung học [xem 106, tr.84]. Như vậy, không thể phủ nhận những tiến bộ về chương trình học, sự quy củ của hệ thống tổ chức giáo dục, hệ thống bằng cấp của nền giáo dục Pháp - Việt và tầm cao học vấn của các trí thức Tân học: “Nhìn lại lịch sử hình thành lớp trí thức Việt Nam qua các thế hệ, tôi [Hoàng Tụy] vẫn băn khoăn một câu hỏi lớn: tại sao trong hơn 80 năm qua, hình như chưa có thế hệ trí thức nào vượt qua được về tài năng, trí tuệ và cả phẩm chất nhân cách, thế hệ trí thức những năm 30-45 thế kỷ trước - thời kỳ Tự lực Văn đoàn, trào lưu Thơ mới, có các nhạc sỹ Văn Cao, Đặng Thế Phong, có các nhà khoa học, giáo dục hiện đại Đặng Thai Mai, Hoàng Xuân Hãn, Tạ Quang Bửu, Lê Văn Thiêm, Tôn Thất Tùng, Hồ Đắc Di, Ngyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên, Trần Đức Thảo, có những nhà hoạt động chính trị Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Phan Thanh … Hầu hết những trí thức này đều học trường Pháp” [dẫn theo 41, tr.288] nhưng nếu xem xét nền giáo dục Việt Nam từ lập trường dân tộc và tiêu chí đánh giá sự phát triển là số học sinh theo học tại các cơ sở giáo dục do người Pháp tổ chức thì những đánh giá đại loại như “Thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân về giáo dục, đầu độc về văn hóa nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho chúng trong việc cai trị và khai thác thuộc địa” [27, tr.12-13] không hẳn hoàn toàn là tư biện hay phát xuất từ định kiến chính trị. “Chính sách giáo dục ngu dân làm công cụ nô dịch tinh thần” [35, tr.66] có thể là nhận định nặng lời đối với nền giáo dục phổ thông thời Pháp đô hộ. Nhưng quan điểm “coi giáo dục như một thứ của quý không thể đem phân phát cho bất kì ai” và sự hạn chế về đối tượng học sinh “trước hết trong đám con em những người cầm đầu, con em những bậc kì hào” [dẫn theo 35, tr.57] đã dẫn đến tình trạng hơn 95% dân số Việt

Nam mù chữ sau cách mạng tháng Tám - 1945. Điều này đã đi ngược lại sứ mệnh khai hóa mà Pháp đã tuyên bố khi bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược.

Không còn đủ sức để giải quyết các vấn đề xã hội, lại bị chính tầng lớp sỹ phu và học sinh người Việt chối bỏ, đầu thế kỷ XX, nền Nho học đã vĩnh viễn trôi vào quá khứ. Sự tồn tại của nền Tây học do chính quyền thực dân Pháp tổ chức dù không thành công nếu nhìn từ quan điểm giáo dục đại chúng nhưng đã góp phần hiện đại hóa nền giáo dục bản xứ [41, tr.283,287], đặt nền tảng xây dựng nền giáo dục theo hướng hiện đại, hợp thời. Đi cùng với sự phát triển của giáo dục, văn hóa phương Tây dần lan tỏa vào xã hội Việt Nam đương cơn chuyển mình và một cách tự nhiên, hòa nhập vào văn hóa dân tộc.

*

Văn hóa phương Tây đã gợi ra cho các sỹ phu Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ … những ý tưởng cải cách giáo dục thực sự nhưng tính bảo thủ của văn hóa đã gieo rắc nỗi hoài nghi và, cùng với những chuyển biến bất ngờ của tình hình chiến sự, đã ngăn cản việc thực hiện các kiến nghị canh tân đất nước. Mô hình giáo dục phương Tây đã được chính quyền thực dân Pháp áp dụng ở Việt Nam nhưng trong buổi đầu, dân chúng đã phản ứng bằng thái độ bất hợp tác và chỉ chấp nhận khi mô hình giáo dục này chứa đựng yếu tố bản xứ. Như vậy, dù trong hoàn cảnh đất nước còn chủ quyền độc lập hay đã bị kẻ xâm lược tước đoạt, quá trình tiếp xúc, tiếp nhận văn hóa luôn đi cùng với quá trình tiếp biến, tương tác văn hóa. Sự nghiệp “chinh phục tinh thần” của người Pháp đã tạo nên nhiều thay đổi trong lĩnh vực giáo dục đồng thời văn hóa bản xứ cũng có thêm nhiều yếu tố mới đến từ phương Tây. Tuy những tư tưởng cao quý của trào lưu triết học Ánh sáng kết tinh trong khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” không được thể hiện, nhưng sự ra đời của nền học chính do người Pháp chủ trì đã đánh dấu bước phát triển của nền giáo dục Việt Nam.

KẾT LUẬN‌


Tìm hiểu lĩnh vực cải cách giáo dục ở Việt Nam thời kỳ 1862-1945 từ góc nhìn tương tác giữa yếu tố văn hóa Pháp và yếu tố văn hóa Việt, chúng tôi xin trình bày nhận thức về các vấn đề dưới đây.

1. Yêu cầu cải cách của nền giáo dục Việt Nam trong thế kỷ XIX

Tiếp nhận từ Trung Hoa, hệ tư tưởng Nho giáo với các nguyên lý Khổng - Mạnh đã trở thành nền tảng triết lý giáo dục của Việt Nam trong suốt hàng nghìn năm cho đến đầu thế kỷ XX [94, tr.122]. Nền giáo dục Nho học là cần thiết đối với một xã hội đang trong quá trình xác lập vị thế của chế độ quân chủ nhưng ngày càng tỏ ra không phù hợp trước yêu cầu phát triển của đất nước. Kế nghiệp Gia Long trong hoàn cảnh đất nước và khu vực có nhiều thay đổi, vua Minh Mệnh, vua Tự Đức và nhiều sỹ phu muốn chấn chỉnh lại lối học hành thi cử, hướng nội dung giáo dục vào những vấn đề thực tiễn. Chủ trương chú trọng thực học nhưng những cải cách của triều đình cũng chỉ quẩn quanh trong khuôn khổ của Tứ Thư, Ngũ Kinh và khoa cử vẫn là con đường tiến thân duy nhất của sỹ tử. Những kiến nghị thay đổi nền giáo dục của quan lại chỉ là những biện pháp đơn lẻ, thiếu tính hệ thống, phát xuất từ nhận thức cảm quan khi tiếp xúc với nền văn minh phương Tây trong những lần đi công cán ở nước ngoài, do đó không thể áp dụng vào thực tế. Ý tưởng cải cách giáo dục của Nguyễn Trường Tộ tuy được trình bày rõ ràng và hệ thống hơn những đề nghị của Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ … nhưng trước sự bội ước và hành động xâm lược của thực dân Pháp, triều đình không còn đủ bình tĩnh để tiếp tục thực hiện hay quan tâm đến các dự án canh tân. Tất cả đã dẫn đến hệ quả là: nền Nho học vẫn lay lắt tồn tại với những luận thuyết lỗi thời.

Sau khi giành được những thắng lợi về quân sự, người Pháp đã đặt sự quan tâm vào giáo dục. Bởi lẽ, việc mở trường dạy học là cần thiết để trước hết, tạo ra những viên chức đảm nhận các công việc thông ngôn, thư ký trong các cơ quan hành chính vừa được thiết lập, đồng thời tạo sự liên hệ giữa tầng lớp cai trị và người dân bản xứ; còn về lâu dài, tạo ra nguồn nhân lực cung ứng cho các chương trình kinh tế lớn lao sẽ được thực hiện. Người Pháp cũng nhận ra rằng sự tồn tại của nền Nho học là bước cản của ý đồ xác lập nền thống trị của họ. Bởi lẽ, nền giáo dục này là một cơ sở tồn tại của những giá trị văn hóa truyền thống, trường học của thầy đồ là nơi nuôi dưỡng lòng yêu nước. Mọi chủ trương khai hóa,

truyền bá văn minh phương Tây sẽ không đem lại hiệu quả nếu chữ Hán không được thay thế bằng chữ Pháp và chữ Quốc ngữ.

Như vậy, phát xuất từ những động cơ khác nhau mà các vua triều Nguyễn, quan lại, sỹ phu và nhà cầm quyền Pháp đã đề ra những ý tưởng, chủ trương cải cách nền giáo dục hiện đang tồn tại. Ưu thế về quân sự và sự xác lập nền thống trị đã mang đến cho người Pháp quyền chủ động tiến hành những cải cách giáo dục nhằm kế tục sự nghiệp chinh phục mà người lính đang hoàn thành.

2. Quá trình thiết lập nền giáo dục Pháp - Việt ở Việt Nam

Chương trình học và hệ thống tổ chức giáo dục được thiết kế nhằm đáp ứng mục đích giáo dục, phù hợp với đường lối giáo dục của nhà cầm quyền. Khi nền giáo dục còn đang trong quá trình dò dẫm thì chương trình học và hệ thống tổ chức, do sự chi phối của quan điểm cai trị và tình hình thực tế, chưa thể có ngay được sự ổn định.

Vùng đất Nam Kỳ, do hoàn cảnh lịch sử, là nơi đầu tiên của nước Đại Nam đón nhận nền học vấn mới. Sau 13 năm kể từ khi Đô đốc Charner ký Nghị định thành lập trường Bá Đa Lộc (1861), qua 2 lần thay đổi đường lối: Bonard - “Tôn trọng chữ nghĩa và những người có học thức”, De La Grandière - “Giáng một đòn chí tử lên tinh thần duy lý Trung Hoa cũ kỹ” [dẫn theo 115, tr.181,199], nền giáo dục Nam Kỳ mới được tổ chức theo một bản quy chế có những quy định cụ thể về hệ thống cấp học, chương trình học và chỉ thực sự hoàn chỉnh khi nền giáo dục này được tổ chức theo Quy chế 1879 do Lafont ban hành, được áp dụng đến năm 1917.

Đóng quân giữa một xứ sở mà Nho học còn đang ngự trị, dân chúng vẫn tiếp tục chiến đấu theo lời hiệu triệu Cần Vương, chủ trương cải cách giáo dục (cũng như các lĩnh vực khác) của nhà cầm quyền Pháp, tất nhiên, không vì những điều khoản của Hiệp ước Patenôtre (1884) mà dễ dàng được thực hiện ở Bắc và Trung Kỳ. Trong thời gian đầu, Paul Bert và những người kế nhiệm chỉ thành lập được một vài trường Thông ngôn, trường Tiểu học dạy ngôn ngữ và kiến thức khoa học phương Tây; các thầy đồ vẫn tiếp tục dạy Tứ Thư, Ngũ Kinh để học trò tham dự các kỳ thi Nho học do triều đình tổ chức. Cuộc cải cách giáo dục do Paul Beau khởi xướng năm 1906, được Klobukowsky và Albert Sarraut tiếp tục, đã chấp nhận tình trạng song hành tồn tại của hai nền giáo dục: Nho học và Tân học. Mãi đến năm 1917, khi nhậm chức Toàn quyền Đông Dương (lần thứ 2), Albert Sarraut mới thực hiện bước đi dứt khoát: xác lập nền giáo dục Pháp - Việt ở Việt Nam. Sau đó, Martial

Xem tất cả 146 trang.

Ngày đăng: 09/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí