bất chính t khách du lịch" là hành vi bị Luật Du lịch nghiêm cấm, tuy nhiên Nghị định mới ch được ghi nhận hành vi "Thu tiền ngoài hợp đồng t khách du lịch" (Điểm a khoản 6 điều 42 và điểm b khoản 6 điều 45) là chưa đầy đủ so với quy định của Luật Du lịch. Thu tiền ngoài hợp đồng t khách có thể là thu thêm những khoản do khách sử dụng sản phẩm dịch vụ nhưng không lập phụ lục bổ sung hợp đồng có thể dẫn đến kê khai doanh thu sai lệch hoặc doanh nghiệp không kiểm soát được dịch vụ. Còn thu lợi bất chính thì có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân như ép buộc khách mua sắm, sử dụng dịch vụ nhằm hưởng hoa hồng, thu thêm những khoản đã trọn gói trong giá dịch vụ (vé tham quan, ăn sáng, xe đưa đón trung chuyển) hoặc kênh giá dịch vụ cao hơn nhằm thu thêm của khách, hoặc cắt giảm chất lượng tiêu chuẩn dịch vụ thấp hơn mức thỏa thuận nhằm hưởng chênh lệch giá dịch vụ… Vậy Nghị định cần phải xác định chế tài đối với hành vi thu lợi bất chính t khách du lịch đó chính là yêu cầu đặt ra với pháp luật về xử lý VPHC trong du lịch; hành vi “phân biệt đối xử” giữa khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế không được quy định nên thực tế diễn ra phổ biến mà không có cơ chế để xử lý vi phạm, điều này làm xấu đi hình ảnh của du lịch Việt Nam. Việc phân biệt đối xử không ch dừng lại ở "chính sách 2 giá" khiến cho khách du lịch nước ngoài "một đi không trở lại" mà còn dẫn đến tình trạng khách du lịch nội địa của Việt Nam còn phải giả dạng là khách quốc tế để được hưởng sản phẩm dịch vụ tốt hơn.
Hai là, Nghị định 158/2013/NĐ-CP hiện không còn quy định về "lợi dụng hoạt động hướng dẫn du lịch để thuyết minh, cung cấp thông tin làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự và an toàn xã hội". Hành vi này trước đây được quy định tại điểm đ khoản 5 điều 7 Nghị định 16/2012/NĐ-CP. Đây là một hành vi thể hiện rõ sự xâm hại đến trật tự quản lý Nhà nước trong lĩnh vực du lịch vì hành vi này không những tạo ấn tượng xấu cho nền du lịch Việt Nam, gây mất an ninh trật tự an toàn xã hội và cần được xử lý theo quy định của pháp luật. Thực tế khi xảy ra hành vi này thì không có căn cứ pháp lí để xử lí. Theo Nghị định 158/2013/NĐ-
CP quy định: Giới thiệu sai lệch giá trị văn hóa, lịch sử, đất nước, con người Việt Nam, gây ảnh hưởng xấu tới hình ảnh, thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa của Việt Nam, hành vi này có thể do nguyên nhân chủ yếu là trình độ nhận thức của HDV còn hạn chế, hiểu biết chưa đầy đủ toàn diện về văn hóa, lịch sử; hoặc cập nhật không kịp thời thông tin; hoặc tham khảo nguồn tài liệu không đủ tin cậy nên dẫn đến việc giới thiệu sai lệch thông tin về điểm đến. Về bản chất, hành vi này khác hoàn toàn với hành vi lợi dụng hoạt động hướng dẫn du lịch để thuyết minh, cung cấp thông tin là hoàn toàn có chủ ý của HDV nhằm mục đich cung cấp thông tin sai lệch làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự và an toàn xã hội.
- Thẩm quyền xử phạt chưa phù hợp với thực ti n thi hành. Theo Nghị định 158/2013/NĐ-CP thì mức xử phạt tối đa của Thanh tra viên chuyên ngành là 500 nghìn đồng, như vậy chủ thể này ch được xử phạt duy nhất đối với "HDV du lịch, thuyết minh viên có hành vi không đeo thẻ giấy chứng nhận hành nghề" (Khoản 1 điều 44 Nghị định 158/2013/NĐ-CP). Trên thực tế khi Thanh tra viên chuyên ngành phát hiện nhiều vi phạm khác do hạn chế về thẩm quyền nên Thanh tra ch dừng lại ở mức độ lập biên bản.
Chánh Thanh tra Sở VHTTDL cũng ch được áp dụng mức phạt tối đa là 25 triệu đồng; thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm cũng không vượt quá mức đó trong khi trên thực tế Sở VHTTDL là cơ quan có chức năng giúp việc chuyên môn cho UBND cấp t nh và thực hiện hoạt động quản lý Nhà nước trong lĩnh vực du lịch, VPHC cũng chủ yếu diễn ra tại các khu du lịch, điểm du lịch trên địa bàn quản lý. Với mức phạt quy định trong Nghị định 158/2013/NĐ-CP thì sẽ nhiều VPHC trong lĩnh vực du lịch phải chuyển lên cấp trên giải quyết gây ách tắc trong công tác xử lý trong khi cấp dưới ch thực hiện chức năng lập biên bản [23].
Việc này dễ dẫn đến các VPHC trong du lịch có thể không được xử lý do đã hết thời hiệu xử phạt, làm giảm hiệu quả áp dụng pháp luật về xử lý VPHC trong
lĩnh vực du lịch. Chưa kể đến việc cơ quan cấp trên không đủ nhân lực chuyên môn để xử lý các VPHC vì hiện nay thẩm quyền xử phạt đều chủ yếu dành cho các chức danh thủ trưởng như Chánh Thanh tra chuyên ngành; Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành; Chủ tịch UBND các cấp,... gây quá tải đối với cấp trên.
Hiện nay tại điều 54 Luật Xử lý VPHC 2012 có mở ra quy định về giao quyền xử phạt cho cấp phó nhưng việc giao quyền xử phạt phải được thực hiện thường xuyên hoặc theo vụ việc và phải được thể hiện bằng văn bản xác định rõ phạm vi, nội dung, thời hạn giao quyền,... và cấp phó được giao quyền phải chịu trách nhiệm trước người được giao và trước pháp luật về quyết định xử phạt của mình, không được ủy quyền lại hay giao cho bất kì người nào khác. Tuy nhiên việc vận dụng trong thực tế cũng rất khó đối với xử lý VPHC nói chung và trong du lịch nói riêng vì nếu đầu tư xử lý VPHC quá nhiều thì sẽ dẫn đến không còn nguồn lực (thời gian và nhân lực) để thực hiện các hoạt động quản lý Nhà nước khác và khiến cho pháp luật về xử lý VPHC trong lĩnh vực du lịch không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, phòng chống VPHC có hiệu quả, kịp thời và cũng không phù hợp với chủ trương cải cách hành chính, phân cấp mạnh cho chính quyền cơ sở mà Nhà nước ta đang thúc đẩy thực hiện.
- Công tác “hậu kiểm” xử phạt VPHC chưa được quan tâm đúng mực khiến ý nghĩa của xử phạt giảm sút. Cán bộ thực thi hạn chế về kinh nghiệm nên đôi khi xử lý còn lúng túng. Do đội ngũ cán bộ hạn chế về số lượng nên chưa kiểm tra giám sát thường xuyên việc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả đối với những cơ sở đã có quyết định xử phạt và phải áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong các hoạt động dịch vụ kinh doanh lữ hành, hướng dẫn du lịch, dịch vụ ăn uống, dịch vụ lưu trú và các dịch vụ bổ sung trong cơ sở lưu trú du lịch chưa được sát sao, kịp thời. Với đội ngũ thanh tra mỏng, hoạt động chưa mang tính liên ngành, trong điều kiện trang thiết bị hỗ trợ việc kiểm tra và phát hiện vi phạm còn thiếu cũng như chưa
Có thể bạn quan tâm!
- Hiện Trạng Cơ Sở Lưu Trú Ở Hải Phòng Giai Đoạn 2013 - 2017
- Xử Lý Vi Phạm Hành Chính Trong Hoạt Đ Ng Hư Ng Dẫn Du Lịch
- Xử Lý Vi Phạm Hành Chính Trong Hoạt Đ Ng Vận Chuyển Khách Du Lịch
- Bảo Đảm Xử Lý Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh Vực Du Lịch Phù Hợp V I Thực Tiễn Việt Nam Và Xu Thế H I Nhập Quốc Tế
- Tăng Cường Công Tác Tuyên Truyền, Phổ Biến Chính Sách, Pháp Luật Du Lịch
- Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch biển - từ thực tiễn thành phố Hải Phòng - 15
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
kịp thời đầu tư ứng dụng công nghệ hiện đại đại vào quản lý hoạt động du lịch, phát hiện và xử lý vi phạm trong bối cảnh số lượng du khách tăng vọt trong thời gian qua. Tồn tại tình trạng cung cấp dịch vụ với mức giá tự phát đặc biệt vào thời kỳ cao điểm như lễ, tết du khách có điều kiện tham gia nhiều vào hoạt động du lịch.
- Thiếu quy chế quản lý hoạt động kinh doanh du lịch trên biển. Hiện nay Hải Phòng chưa có quy định cụ thể về việc quản lý hoạt động du lịch trên các vịnh thuộc quần đảo Cát Bà, bao gồm quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch, quản lý hoạt động kinh doanh vận tải khách du lịch bằng phương tiện thủy nội địa, quản lý tàu thủy lưu trú du lịch và hoạt động có ảnh hưởng đến môi trường du lịch, môi trường vùng vịnh thuộc quần đảo Cát Bà; công tác quản lý tàu tham quan du lịch, tàu lưu trú ngủ đêm trên đảo Cát Bà còn thiếu chặt chẽ, chưa triển khai thu phí đối với các tàu đang hoạt động lưu trú, ngh đêm trên vịnh thuộc Cát Bà trong khi các cơ quan chức năng chưa thường xuyên thanh, kiểm tra hoạt động lưu trú ngủ đêm trên đảo.
- Chưa có cơ chế kiểm tra, giám sát đảm bảo khắc phục những yếu điểm tại các điểm du lịch biển: Tình trạng mất an ninh trật tự, mất vệ sinh, hoạt động kinh doanh dịch vụ tự phát, hiện tượng taxi dù, chèo kéo, đeo bám, nài ép, chặt chém khách du lịch tại các điểm du lịch vẫn xảy ra ở các điểm du lịch Đồ Sơn và Cát Bà Hải Phòng, bên cạnh đó hiện tượng bán hàng rong, mang đồ ăn thức uống xuống khu vực bãi tắm vẫn diễn ra hàng ngày và hoạt động mạnh vào mùa cao điểm, cơ sở lưu trú và dịch vụ du lịch phát triển nhanh nhưng quy mô, tính chất, tiện nghi và sản phẩm du lịch nhỏ lẻ, vận hành chưa chuyên nghiệp, chưa tạo ra sản phẩm du lịch mang phong cách đặc thù của vùng biển. Những vấn đề này tưởng chừng đơn giản nhưng thực chất lại tạo ấn tượng xấu đối với du khách.
- Còn thiếu sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan thanh tra liên ngành trong việc kiểm tra, phát hiện và xử lý những vi phạm ảnh hưởng trực tiếp đến
hoạt động du lịch biển. Nhiều hành vi phạm xảy ra ngay tại cơ sở kinh doanh du lịch hoặc xảy ra trong quá trình tương tác với môi trường biển như vi phạm PCCC, VSATTP, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội (cờ bạc, trộm cắp, mại dâm), xây dựng lấn biển, phá vỡ cảnh quan biển, tàu xe không đủ điều kiện vận tải khách du lịch,… nhưng những vi phạm đó đều không thuộc thẩm quyền xử lý của thanh tra chuyên ngành du lịch. Vậy các cơ quan chuyên ngành về PCCC, y tế, thị trường, tài nguyên môi trường, xây dựng, giao thông đường bộ, giao thông đường thủy vào cuộc như thế nào để đồng hành cùng sự phát triển của ngành kinh tế mũi nhọn? Nếu thiếu sự phối hợp đồng bộ nhịp nhàng của các cơ quan chuyên môn trong việc loại trừ các vi phạm trong các lĩnh vực liên quan đến du lịch thì dù cho cố gắng làm đẹp hình ảnh du lịch bao nhiêu cũng không thể nâng cao được uy tín, thương hiệu du lịch của điểm đến nếu ch xảy ra một vụ hỏa hoạn tại cơ sở lưu trú du lịch, một vụ ngộ độc thực phẩm đối với khách du lịch hay một vụ tai nạn tàu thủy chở khách du lịch… Thiếu sự phối hợp của các cơ quan thanh tra liên ngành bắt nguồn từ những nội tại có tính lịch sử của bộ máy làm công tác thanh tra của các ngành chức năng. Đối với ngành du lịch nói riêng, một lực lượng thanh tra ch vừa đủ theo định biên của nhà nước từ thời điểm du lịch manh nha và quá độ sang giai đoạn kinh tế thị trường, lực lượng thanh tra vẫn mỏng và thiếu ngay cả khi du lịch được đặt trong tầm ngắm trở thành ngành kinh tế quan trọng cho đến khi khẳng định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia và của địa phương.
Tiểu kết chương 2
Thực trạng vi phạm hành chính trong hoạt động du lịch tại Hải Phòng vẫn diễn ra khá đa dạng, phức tạp, song hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn Hải Phòng đã có nhiều tiến triển tích cực, nhiều vụ việc vi phạm được phát hiện và bị xử phạt đúng thẩm quyền, đúng trình tự, đúng mức phạt, đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa vi phạm hành chính.
Trong bối cảnh hiện nay, đòi hỏi lực lượng chức năng phải tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, thanh tra, phát hiện và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch biển tại Hải Phòng nhằm hạn chế tối đa vi phạm, bảo vệ quyền lợi của khách du lịch, nâng cao sức hấp dẫn của du lịch biển Hải Phòng, tăng năng lực cạnh tranh với các nước trong khu vực và quốc tế. Do đó, đòi hỏi phải có những giải pháp phù hợp với mục tiêu, điều kiện, bối cảnh vể phát triết du lịch biển Hải Phòng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH BIỂN
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
biển
3.1. Quan điểm đảm bảo xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch
3.1.1. Đảm bảo xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nư c pháp quyền xã h i chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và v Nhân dân
Chế độ ta là chế độ do nhân dân làm chủ, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện chủ yếu thông qua Nhà nước. Đảng ta là đảng cầm quyền, đảng lãnh đạo toàn xã hội cũng chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước. Vì vậy, chăm lo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thật sự của dân, do dân, vì dân, trong sạch, vững mạnh, quản lý có hiệu lực, hiệu quả cao mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối nội, đối ngoại của đất nước luôn là mối quan tâm, là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và nhân dân ta.
Nhà nước quản lý, điều hành bằng pháp luật. Do đó, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm cho luật pháp thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng và quyền lực của dân, thực sự bảo vệ các quyền, lợi ích của công dân. Pháp luật chiếm vị trí tối thượng trong hoạt động của Nhà nước và trong đời sống xã hội. Một trong những biểu hiện của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là pháp luật của Nhà nước được thể chế hóa và bảo vệ quyền công dân và quyền con người.
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, kỷ luật, kỷ cương trong mọi lĩnh vực của xã hội.
Hoạt động xử lí vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch nói chung và lĩnh vực du lịch biển nói riêng phải đáp ứng yêu cầu làm tốt chức năng quản lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tổ chức thực hiện có hiệu quả những văn bản pháp luật du lịch và văn bản có liên quan, thực hiện tốt cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; quản lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên du lịch, củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển ngành du lịch của đại phương và đất nước.
3.1.2. Đảm bảo xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực du lịch gắn v i việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trư ng định hư ng xã h i chủ nghĩa ở Việt Nam
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII xác định: Việc phát triển nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) được xem là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ Đại hội VI, Đảng, Nhà nước đã chú trọng nghiên cứu, đổi mới nhận thức, lý luận, có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp xây dựng, hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN; luôn coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước.
Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế tuân theo các quy luật của KTTT có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế, có hệ thống đầy đủ, đồng bộ các loại thị trường; các chủ thể thị trường được cạnh tranh tự do theo pháp luật; giá cả được hình thành trên cơ sở cung - cầu và quy luật giá trị; thị trường ngày càng đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển và là một bộ phận hữu cơ của thị trường thế giới; Nhà nước đóng vai trò phục vụ, tạo khung pháp lý, hỗ trợ và quản lý phát triển nền kinh tế, tôn trọng các nguyên tắc và các quy luật của KTTT.