Những Khó Khăn Mà Doanh Nghiệp Gặp Phải Trong Quá Trình Xây Dựng Và Phát Triển Văn Hoá Doanh Nghiệp

Ngày nay, lôgô đã được coi như hình ảnh thu nhỏ của doanh nghiệp trên các phương tiện thông tin đại chúng và trong con mắt khách hàng và đối tác. Thực tế là thời gian gần đây, các thông tin về các cuộc thi sáng tác lôgô, gọi thầu thiết kế lôgô, tuyên bố lôgô mới đã khá phổ biến trên các phương tiện truyền thông của Việt Nam. Các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ đều đã chú ý xây dựng lôgô cho riêng mình. Tuy nhiên, chất lượng lôgô cũng như khả năng thực hiện vai trò giới thiệu và nâng cao hình ảnh của VHDN thì còn rất hạn chế. Có nhiều doanh nghiệp lôgô quá khó hiểu và không mang nét đặc trưng, số khác thì lại tương tự như nhau dẫn đến khó nhận dạng và phân biệt.

Kiến trúc, diện mạo và phong cách giao dịch

Những toà nhà kiên cố đã mọc lên thay thế những cơ sở sản xuất cũ nát trước đây. Đa số những người được phỏng vấn trực tiếp đều cho rằng, khách hàng và đối tác của họ ngày càng chú ý hơn tới kiến trúc, cách bài trí và cung cách phục vụ của lễ tân nơi công sở. Tuy nhiên, theo kết quả điều tra thì vẫn còn 8,89% số doanh nghiệp được điều tra vẫn bị khách hàng và đối tác phàn nàn về sự sơ sài, thiếu sót trong vấn đề này; 55,56% được nhận xét là bình thường, không có gì nổi bật.

Có tới 26,26% số doanh nghiệp được điều tra còn giữ được cho mình những cách bài trí, phong cách giao dịch, trang phục và lôgô mang đậm tính truyền thống. Đây đồng thời cũng là những doanh nghiệp đã đánh giá rất cao vai trò của văn hoá truyền thống đối với sự hình thành và phát triển VHDN của mình trong thời kỳ hội nhập.

Một xu hướng khác, đó là trong bối cảnh hội nhập, các yếu tố hữu hình trong VHDN đã có nhiều thay đổi và mang những nét hiện đại hơn, do ảnh hưởng của văn hoá tiêu dùng nước ngoài. Trong số 45 doanh nghiệp được điều tra, có 4 doanh nghiệp, chủ yếu thuộc nhóm ngành công nghiệp nặng được đánh giá là có cấu trúc hữu hình độc đáo và hiện đại. Xét trên khía cạnh tích cực, những học hỏi từ văn hoá nước ngoài sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam nhanh chóng hoà đồng với đối tác và khách hàng ngoại quốc. Tuy nhiên, cũng do sự hạn chế về nhận thức và đôi khi là tính “đua đòi”, trong quá trình “hiện đại hoá”, một số doanh nghiệp đã tự tạo cho mình một VHDN theo kiểu “lai căng”, “lố bịch”. Hiện tượng này được thể hiện rất

rõ ở kiến trúc công sở và phong cách, ngôn ngữ giao dịch của các nhân viên: nhiều doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh dọc các đường phố Hà Nội có kiến trúc bề ngoài rất hiện đại theo kiểu phương Tây, nhưng bên trong các phòng ban lại bày toàn đồ cổ. Hoặc nội thất trong doanh nghiệp được trang trí theo kiểu Trung Quốc, nhưng đồng phục của nhân viên lại đúng theo kiểu Mỹ...

Cơ cấu tổ chức

Cơ cấu tổ chức trong doanh nghiệp được điều tra cũng có nhiều sự khác biệt. Theo kết quả điều tra, có 17 trong số 45 doanh nghiệp được hỏi có cơ cấu tổ chức, các phòng ban hoạt động hiệu quả và nhịp nhàng; 23 doanh nghiệp hoạt động tạm ổn và vẫn đang trong thời gian cải thiện để trở nên gọn nhẹ, hợp lý hơn. Số còn lại đang gặp khó khăn trong vấn đề tổ chức do nhân sự các phòng ban được bố trí chưa hợp lý, dẫn tới công việc vừa chồng chéo vừa sơ hở.

Các hoạt động văn hoá tập thể, lễ hội, lễ kỷ niệm

Xét về các hoạt động lễ hội, lễ kỷ niệm một biểu hiện bề nổi khác của VHDN, cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, các hoạt động văn hóa này ngày càng trở thành nhu cầu tinh thần không thể thiếu trong các doanh nghiệp. Có tới 20 doanh nghiệp được điều tra thường xuyên tổ chức các hoạt động kỷ niệm như: ngày thành lập công ty, ngày Quốc khánh, ngày Quốc tế Lao động, ngày Quốc tế Phụ nữ...; 12 doanh nghiệp lựa chọn cách tổ chức lễ hội, lễ kỷ niệm một cách rầm rộ khi làm ăn phát đạt; số còn lại chỉ tổ chức các hoạt động lễ hội quan trọng nhất.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Tính chất và thể loại các lễ hội, lễ kỷ niệm được tổ chức lại chủ yếu phụ thuộc vào thành phần kinh tế của các doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước đều chú ý tổ chức tất cả các dịp quốc lễ như Quốc khánh (2/9), Giải phóng Miền Nam (30/4), ngày Phụ nữ Việt Nam (20/10)... Trong khi đó, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có yếu tố nước ngoài và các doanh nghiệp tư nhân lại quan tâm nhiều hơn tới những lễ hội du nhập như: Noel, Halowen và các hoạt động văn hoá thể thao, du lịch nhân dịp thành lập công ty, trúng thầu, tìm được thị trường mới...

2.3.2. Các giá trị được thể hiện

Xây dựng văn hóa doanh nghiệp mạnh vì sự trường tồn và phát triển của doanh nghiệp Việt Nam - 8

Những năm gần đây, cùng với phong trào xây dựng và phát triển thương hiệu, lần lượt các doanh nghiệp cũng đã bắt đầu quan tâm tới việc xây dựng và tuyên bố công khai trước cộng đồng người tiêu dùng về triết lý kinh doanh: tầm nhìn, sứ mệnh, giá trị cốt lõi, các mục tiêu và những nguyên tắc định hướng của doanh nghiệp mình. Một trong các doanh nghiệp trẻ và thành công của Việt Nam, công ty Cà phê Trung Nguyên đã xây dựng cho mình một sứ mệnh độc đáo, vừa hiện đại vừa mang đậm yếu tố truyền thống: Xây dựng thương hiệu hàng đầu qua việc mang đến cho người thưởng thức cà phê và trà nguồn cảm hứng sáng tạo và niềm tự hào trong phong cách cà phê Trung Nguyên đậm đà văn hoá Việt. Trung Nguyên cũng là một trong các doanh nghiệp tiên phong đã tuyên bố một cách rõ ràng các giá trị cốt lõi trong kinh doanh của mình.

Một trong những gương mặt tiêu biểu khác trong làng doanh nghiệp thành đạt của Việt Nam, Tổng Công ty Xuất nhập khẩu Xây dựng Việt Nam (VINACONEX) cũng xác định cho mình một tầm nhìn khá táo bạo: Phấn đấu xây dựng VINACONEX trở thành tập đoàn kinh tế đa doanh hàng đầu của ngành xây dựng Việt Nam, hoạt động có hiệu quả, tăng trưởng bền vững, quan tâm đến trách nhiệm xã hội, đóng góp ngày càng nhiều cho sự phát triển đất nước. Và còn rất nhiều ví dụ khác về những doanh nghiệp đã tiên phong trong việc xây dựng VHDN ở Việt Nam, những doanh nghiệp đã hoàn thành được website riêng với những trang web tuyên bố về triết lý kinh doanh, các nguyên tắc và mạnh dạn xác định cho mình tầm nhìn trong thế kỷ XXI.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn nhiều doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ thực hiện theo trào lưu chứ chưa thực sự đạt được sự nhận thức đúng đắn và khoa học về vấn đề này. Khi tác giả tiến hành điều tra, có tới 30 doanh nghiệp trả lời đã xây dựng triết lý kinh doanh và sứ mệnh cho mình. Nhưng chỉ có 5 trong số đó trả lời được một cách cụ thể về triết lý kinh doanh cũng như sứ mệnh của doanh nghiệp. Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp hàng của chúng ta cũng chưa có sự đầu tư thích đáng cho việc nghiên cứu, xây dựng các giá trị được tuyên bố. Cũng như thế, không phải bất kỳ doanh nghiệp nào cũng đã xây dựng được cho mình hệ thống hoàn chỉnh các qui tắc và thông lệ trong doanh nghiệp. Theo kết quả điều tra, chỉ có 18 doanh nghiệp yêu cầu toàn thể nhân viên thực hiện một cách

nghiêm túc các qui tắc được đề ra; số còn lại, qui tắc mới chỉ nằm trên các văn bản giấy tờ.

Thậm chí ngay cả khi các giá trị này đã được ban lãnh đạo đặt ra thì việc tuyên truyền nó tới toàn thể nhân viên trong doanh nghiệp vẫn còn nhiều bất cập. Không ít cán bộ nhân viên, rất thông thạo nghiệp vụ và đã có nhiều năm gắn bó với doanh nghiệp nhưng khi được phỏng vấn lại không hiểu rõ về các nguyên tắc kinh doanh và sứ mệnh của doanh nghiệp. Trong số 45 đối tượng điều tra, chỉ có 20 doanh nghiệp (chiếm 44,44%) tổ chức các khoá đào tạo bắt buộc cho các nhân viên mới về triết lý kinh doanh và các nguyên tắc, thông lệ trong doanh nghiệp ; 55,56% còn lại, các nhân viên mới phải tự tìm hiều những nguyên tắc này (nếu có) thông qua việc truyền miệng của những người đi trước. Chính vì thế mà chỉ có 19 doanh nghiệp có được sự tôn trọng của toàn thể nhân viên đối với các giá trị được tuyên bố; 23 doanh nghiệp, các nhân viên chỉ tôn trọng chúng khi bị ép buộc; 3 doanh nghiệp còn lại, các nhân viên hoàn toàn thờ ơ với mục đích kinh doanh, tầm nhìn, sứ mệnh và các giá trị được tuyên bố khác của doanh nghiệp.

Kết quả điều tra cũng chỉ ra rằng, các doanh nghiệp thành công trong việc phổ biến rộng rãi các giá trị tuyên bố chung của mình tới toàn thể nhân viên thường nhanh chóng có được sự phát triển nhịp nhàng, thống nhất trong doanh nghiệp và dễ dàng hơn trong việc phát huy sức mạnh tập thể trong những giai đoạn khó khăn. Các doanh nghiệp này đã đặc biệt chú trọng tới việc truyền đạt các giá trị cốt lõi cho nhân viên, kích thích niềm tự hào và sự nỗ lực của họ bằng những tầm nhìn và sứ mệnh cao xa của doanh nghiệp.

2.3.3. Các ngầm định nền tảng


Quan niệm về xã hội và về các hoạt động kinh doanh:

Từ xưa, trong xã hội Việt Nam đã có câu: “phi thương bất phú”. Thương nghiệp được đánh giá như một nghề có thể tạo nên sự phú quí cho từng cá nhân, dòng tộc và cả quốc gia. Chính vì thế, ngay từ thế kỷ 18, các cửa biển của chúng ta đã tấp lập tàu bè qua lại. Hoạt động buôn bán tuy chưa quy củ được như ngày nay, nhưng những đoàn thuyền chở hàng của Việt Nam cũng đã đến được nhiều quốc gia trong khu vực.

Đương nhiên trong thời kỳ đó, bên cạnh một số thương gia yêu nước và có tinh thần dân tộc, đa số các doanh nhân còn lại đều chưa xác định được vai trò của thương nghiệp đối với sự phát triển của quốc gia và cộng đồng. Trong khi bản chất của mục tiêu đối đa hoá lợi nhuận, dù ở bất kỳ thời đại nào, cũng ẩn chứa nhiều mâu thuẫn đối với lợi ích chung của toàn xã hội. Khi không có sự định hướng đúng đắn của Nhà nước và không đứng trên lợi ích của quốc gia, những mâu thuẫn này sẽ trở nên gay gắt trong quan niệm của nhiều người về kinh doanh và hoạt động thương nghiệp. Chính vì thế mà thời gian trước, hình ảnh giới doanh nhân trong con mắt cộng đồng xã hội Việt Nam không được tốt đẹp. Họ bị coi là đám “con buôn, con phe”. Những quan niệm này không chỉ bắt nguồn từ một phía: về phía các doanh nhân, họ chưa xây dựng được cho mình những nguyên tắc lành mạnh và đạo đức trong kinh doanh; về phía cộng đồng người tiêu dùng, do chưa nhận biết rõ được vai trò của thương nghiệp, đã luôn tự coi mình là những người bị bắt chẹt, bị "mua đắt, bán rẻ" và luôn giữ tư thế đề phòng trước mỗi thương vụ mua bán. Sự không tin tưởng và tôn trọng nhau giữa người tiêu dùng và các doanh nhân đã tạo nên những cản trở lớn cho thương nghiệp Việt Nam trong suốt một thời gian dài.

Ngày nay, mục đích cao nhất của các doanh nghiệp khi tham gia sản xuất kinh doanh đều vẫn là vì lợi nhuận. Tuy nhiên, công cuộc đổi mới cùng với những định hướng đúng đắn của Đảng ta đã tác động lớn tới quan niệm của giới doanh nhân Việt Nam về mục đích và phương pháp kinh doanh trong thời kỳ hội nhập.

Theo kết quả điều tra qua phỏng vấn trực tiếp, 100% số người được hỏi, dù là ở vị trí nào trong doanh nghiệp cũng đều cho rằng: ngày nay doanh nghiệp muốn phát triển phải biết kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, phải biết bảo vệ nguồn tài nguyên môi trường, bảo vệ người lao động. Dĩ nhiên, đây mới chỉ là những quan niệm chung chung của từng thành viên trong doanh nghiệp đã được hình thành thông qua hoạt động tuyên truyền rộng khắp của Đảng và Nhà nước về kinh doanh trong thời đại mới. Điều quan trọng ở đây, là thực trạng của việc thực hiện những quan điểm trên trong toàn doanh nghiệp, tạo nên cầu nối từ lời nói tới hành động.

Tuy nhiên, những quan niệm và biểu hiện về các hoạt động kinh doanh không lành mạnh vẫn còn tồn tại không ít trong các thành viên của các doanh nghiệp Việt Nam: những thủ đoạn, mánh khoé, cạm bấy, làm giàu trên sự khánh kiệt của người khác, thậm chí, sự tranh chấp lừa gạt lẫn nhau giữa các cộng sự vẫn có xu hướng gia tăng cùng những tác động tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị trường. Đây là những tư tưởng xấu cần phải loại bỏ ngay.

Quan niệm về các mối quan hệ trong doanh nghiệp

ở Việt Nam, quan hệ giữa các thành viên trong doanh nghiệp đôi khi bị đánh đồng với các yếu tố bề nổi hữu hình, bởi đó là những gì các nhân viên trong nội bộ doanh nghiệp phải đối mặt hàng ngày trong đời sống công sở của họ. Tuy nhiên đây lại chính là những biểu hiện của các quan niệm mặc định của nhà lãnh đạo và từng thành viên trong doanh nghiệp và chịu nhiều ảnh hưởng của hệ thống tư tưởng xã hội đã ăn sâu trong tiềm thức họ. Qua điều tra, 28 doanh nghiệp cho biết quan hệ giữa các thành viên trong doanh nghiệp cảu họ là khá tốt, 15 doanh nghiệp khác rất tự hào về bầu không khí hoà thuận trong doanh nghiệp mình. Chỉ có 2 đối tượng cho rằng phải cần một thời gian nữa để cải thiện quan hệ giữa các thành viên trong doanh nghiệp. Thực trạng đáng mừng trên bắt nguồn từ quan niệm truyền thống, tương thân tương ái, ưa chuộng hoà khí của người Việt nam. Các thành viên trong các doanh nghiệp Việt Nam thường có xu hướng coi nhau như bằng hữu, cả trong công việc lẫn cuộc sống hằng ngày.

Trong quan niệm về thứ bậc và quyền lực trong doanh nghiệp, trong số 45 doanh nghiệp được điều tra, có 20 doanh nghiệp cho rằng vấn đề trên không quan trọng và không ảnh hưởng nhiều tới quan hệ của họ; 10 doanh nghiệp coi vấn đề thứ bậc chỉ quan trọng trong khía cạnh tài chính, lương bổng; 15 doanh nghiệp còn lại thừa nhận sự chi phối của quyền lực và vấn đề thứ bậc trong tất cả các hoạt động và mối quan hệ của doanh nghiệp.

Xét về vấn đề bình đẳng giới tính, tuy những quan niệm về trọng nam khinh nữ trong xã hội phong kiến vẫn còn ảnh hưởng tới người Việt Nam trong một số khía cạnh nhất định. Tuy nhiên, ngay từ những năm tháng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng tới việc tạo điều kiện cho phụ nữ

phát triển trong công việc và học tập. Thực tế cho thấy, hiện nay ở nước ta đã có rất nhiều nữ giám đốc và nữ doanh nhân giỏi. Quyền lợi của phụ nữ trong các doanh nghiệp được cho là bình đẳng với nam giới. Tuy nhiên, xét về các quan niệm mặc định thì cho tới nay, để đi lên một vị trí cao trong doanh nghiệp người phụ nữ vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc nhận được sự ủng hộ về tinh thần của các thành viên khác. Theo kết quả điều tra, số doanh nghiệp mà phụ nữ giữ chức vụ cao chiếm 44,44%, ít hơn nhiều so với nam giới (55,56%).

Quan niệm về quan hệ với đối tác và khách hàng.

Trong một thời gian dài trước đây, do chưa thực sự xoá bỏ được cơ chế quản lý tập trung, bao cấp, hoạt động nghiên cứu thị trường, đối tác và tạo quan hệ tốt đẹp với khách hàng của các doanh nghiệp Việt Nam chưa được quan tâm một cách thích đáng.

Ngày nay, với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường, hệ thống quan niệm cũ không thể tiếp tục tồn tại. Các doanh nghiệp Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng của việc phải tìm hiểu, tôn trọng và thiện chí hợp tác với các đối tác, khách hàng của mình. Nhiều doanh nghiệp đã xây dựng chiến lược khách hàng và đối tác, có bộ phận chăm sóc khách hàng và chú trọng tới việc tạo quan hệ tốt đẹp với khách hàng.

Tuy nhiên, từ kết quả của cuộc điều tra, mới chỉ có 22,22% số doanh nghiệp được hỏi khi tham gia các thương vụ đã thực sự đầu tư cho việc nghiên cứu thị trường và văn hoá tiêu dùng nước ngoài. Thực tế cho thấy, nhiều doanh nhân của chúng ta vẫn chưa loại bỏ được tư tưởng cố hữu về việc làm ăn manh mún, chưa đứng trên lợi ích của khách hàng, tôn trọng văn hoá tiêu dùng của họ. Chính vì thế mà chỉ có 10 doanh nghiệp được điều tra có thể thích nghi khá tốt với các thị trường xuất khẩu của mình; 19 doanh nghiệp chỉ thích nghi với các thị trường dễ tính và quen thuộc; 16 doanh nghiệp còn lại vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong quan hệ với đối tác và khách hàng của mình. Thực trạng trên cũng được chứng minh bằng tỷ lệ các doanh nghiệp có được khách hàng nước ngoài trung thành. Trong số 45 doanh nghiệp được điều tra, chỉ có 17 doanh nghiệp có được quan hệ tương đối bền chắc với các khách hàng và có được sự hài lòng của đối tác đối với phong cách giao dịch của

mình; 28 doanh nghiệp còn lại chưa có được sự tin tưởng và thiện chí hợp tác lâu dài của khách hàng và đối tác.

Quan hệ với xã hội và cộng đồng

Xu thế hội nhập và toàn cầu hoá ngày càng đặt ra cho các doanh nghiệp, dù hoạt động trên bất kỳ lĩnh vực nào, những yêu cầu về trách nhiệm đối với xã hội và cộng đồng, đối với môi trường sinh thái. Nhận biết được vấn đề này, từ vài năm nay, phong trào tham gia các hoạt động xã hội, hoạt động từ thiện, bảo vệ môi trường đã dấy lên ở nhiều doanh nghiệp của Việt Nam. Hàng năm, có rất nhiều chương trình tài trợ cho giáo dục, thắp sáng tài năng, hỗ trợ y tế, thiên tai, bão lụt... của các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp có doanh thu hàng năm lớn. Một số doanh nghiệp lớn đã đưa “trách nhiệm xã hội” vào triết lý kinh doanh của mình .Ví dụ Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) đã xác định: “Với đạo lý truyền thống của người Việt Nam: uống nước nhớ nguồn, Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam luôn xác định hoạt động xã hội là việc làm cần thiết, là trách nhiệm tự hào của cán bộ công nhân viên chức trong toàn Tổng Công ty”. Thực tế là cùng với nhiều doanh nghiệp đầu ngành khác, Petrolimex đã thường xuyên tham gia hỗ trợ các hoạt động như: cấp học bổng cho học sinh nghèo vượt khó, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đặc biệt là trong công tác thương binh liệt sỹ.

2.4. Những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong quá trình xây dựng và phát triển văn hoá doanh nghiệp

Qua nghiên cứu và tìm hiểu thực tế, tác giả thấy rằng, trong giai đoạn đầu tiến hành xây dựng và phát triển VHDN, các doanh nghiệp của chúng ta vẫn còn khá bỡ ngỡ và gặp rất nhiều khó khăn, cả khách quan và chủ quan.

2.4.1. Những khó khăn khách quan


Thứ nhất, những tác động tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị trường và luồng văn hoá độc hại được du nhập từ nước ngoài. Bên cạnh những yếu tố tích cực, nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập cũng có không ít tác động tiêu cực tới quan niệm và hành vi của các doanh nhân hiện nay. Những thói hư tật xấu, thủ đoạn lừa

Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 19/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí