Lập Công Ty Con, Chi Nhánh, Đại Lý Ở Nước Ngoài


Cuối cùng, doanh nghiệp không phải lo lắng về vấn đề chi phí cho hoạt động phân phối tại thị trường mới. Nhà phân phối sẽ sử dụng những cơ sở vật chất sẵn có của mình để phục vụ cho hoạt động tiêu thụ hàng hoá, đồng thời chịu hoàn toàn rủi ro, gánh chịu toàn bộ trách nhiệm đối với hoạt động của kênh phân phối.

Như vậy, lợi ích mà một nhà phân phối độc quyền đem lại là rất lớn. Tuy nhiên, để đạt được điều này, doanh nghiệp cần phải có sự lựa chọn kỹ càng để chọn được nhà phân phối có bề dày kinh nghiệm, có quan hệ rộng, cơ sở vật chất tốt và khả năng phân phối hàng cao.

Một điều cần lưu ý là, để bảo vệ quyền lợi của mình, doanh nghiệp chỉ nên trao quyền phân phối sản phẩm, chứ không nên trao thương hiệu của mình cho nhà phân phối. Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã nhận được những đề nghị của nhà phân phối về việc thay mặt cho doanh nghiệp đăng ký thương hiệu trên thị trường. Đây là một hoạt động hết sức rủi ro. Dù cho việc trao thương hiệu này được rằng buộc bằng những hợp đồng cụ thể, quyền sở hữu thương hiệu vẫn được xác lập cho doanh nghiệp nhưng trong trường hợp việc kinh doanh không thuận lợi hoặc vì một lý do nào đó phải chấm dứt quan hệ trước thời hạn thì việc lấy lại thương hiệu sẽ rất khó khăn. Nhà phân phối sẽ viện rất nhiều lý do như đã đầu tư cho việc xây dựng thương hiệu, kê ra các loại chi phí… Và lúc đó, doanh nghiệp chỉ còn cách mua lại thương hiệu của chính mình. Đó là chưa kể đến sự tồn tại của một số công ty chuyên săn tìm thương hiệu. Họ thường đưa ra những mồi nhử để lấy thương hiệu đăng ký và sau đó tìm cách để bán lại cho chính doanh nghiệp bằng nhiều biện pháp.

Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi của mình, tránh những rủi ro không đáng có, doanh nghiệp cần thực hiện đăng ký thương hiệu trước khi có ý định thâm nhập một thị trường. Tự mình đăng ký, dù có tốn kém và mất công hơn nhưng doanh nghiệp sẽ chủ động và bảo vệ được thương hiệu của mình.


3.3.4.6. Lập công ty con, chi nhánh, đại lý ở nước ngoài

Trong giai đoạn đầu thâm nhập thị trường, doanh nghiệp có thể áp dụng biện pháp ký hợp đồng phân phối độc quyền với một nhà phân phối nước sở tại. Tuy nhiên, khi thương hiệu đã phát triển và khẳng định được vị trí của mình trên thị trường, biện pháp này trở nên không còn phù hợp. Khi thị trường tiêu thụ sản phẩm được mở rộng, doanh nghiệp rất cần nắm bắt được đầy đủ thông tin về thương hiệu, về tình hình thị trường, nhu cầu của khách hàng cũng như tình hình phân phối để có thể thực hiện những biện pháp phát triển và bảo vệ thương hiệu cần thiết. Những thông tin này không được cung cấp đầy đủ từ nhà phân phối độc quyền. Hơn nữa, trách nhiệm chính của họ là phân phối chứ không phải là bảo vệ thương hiệu. Vì vậy doanh nghiệp rất cần lập một chi nhánh hay văn phòng đại diện. Một mặt những cơ sở này sẽ tìm kiếm, liên hệ với các đại lý và nhà phân phối để mở rộng việc đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng. Đồng thời, văn phòng đại diện và chi nhánh cũng có chức năng thu thập thông tin, tìm hiểu thị trường để giúp cho doanh nghiệp có thể xây dựng chiến lược thương hiệu một cách chính xác, và một khi phát hiện thấy có hành vi xâm phạm thương hiệu, những cơ sở này sẽ có phản ứng nhanh chóng và kịp thời để bảo vệ cho thương hiệu.

Ngoài ra, việc thành lập công ty con cũng cần được tính đến khi doanh nghiệp nhận thấy tiềm năng phát triển thương hiệu trên thị trường. Hiện nay, đã có những doanh nghiệp Việt Nam mạnh dạn đầu tư, chuẩn bị cho việc thành lập những công ty con, công ty liên doanh với nước ngoài trên các thị trường ngoài nước. Những nhà máy này khi được xây dựng sẽ cung cấp sản phẩm trực tiếp trên thị trường nước ngoài. Nhờ vậy, một mặt sẽ tiết kiệm được khoản chi phí vận chuyển hàng hoá (thường là rất lớn) ra nước ngoài, từ đó hạ được giá thành sản xuất. Mặt khác, doanh nghiệp cũng sẽ tận dụng được những chính sách ưu đãi của nước sở tại như về thuế và những khoản chi phí khác, tập trung chi phí cho các hoạt động tăng cường đẩy mạnh phát triển và bảo vệ thương hiệu. Tuy nhiên, cũng cần phải tính đến những thị trường phù


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 217 trang tài liệu này.

hợp để mở công ty con, bởi lẽ ngành may mặc Việt Nam tồn tại và phát triển chủ yếu dựa trên lao động rẻ. Do vậy, những thị trường có chi phí lao động cao thì chưa nên mở công ty.

3.3.4.7. Thay đổi nhận thức của mọi thành viên trong doanh nghiệp về vai trò của mình trong quá trình xây dựng và quản lý thương hiệu

Xây dựng và quản lý thương hiệu của các doanh nghiệp may Việt Nam - 23

Thương hiệu luôn đi kèm với uy tín và chất lượng sản phẩm. Mà uy tín và chất lượng có được là do chính người lao động quyết định. Do vậy, đầu tư cho việc đào tạo và nâng cao tay nghề của người lao động và thái độ phục vụ của nhân viên bán hàng là vô cùng cần thiết.

Theo ông Lê Văn Đạo, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam: “Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần đào tạo lao động có kỹ năng cao, đa kỹ năng. Mỗi doanh nghiệp cần dành tối thiểu 0,5-1% giá thành cho hoạt động đào tạo” [84].

3.4. HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC VỚI CÁC DOANH NGHIỆP MAY VIỆT NAM TRONG XÂY DỰNG VÀ QUẢN LÝ THƯƠNG HIỆU

3.4.1 Hỗ trợ về cơ sở vật chất kỹ thuật

Nhà nước hỗ trợ từ vốn ngân sách, vốn ODA đối với các dự án quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu; đầu tư các công trình bảo vệ môi trường trong đó chú trong các công trình xử lý nước thải; qui hoạch các cụm công nghiệp dệt nhuộm; đào tạo và nghiên cứu của các trường, viện nghiên cứu chuyên ngành dệt may. Thành lập trung tâm đào tạo chuyên ngành dệt may nhằm đào tạo các chuyên viên cao cấp về: Thiết kế thời trang, cán bộ mặt hàng, tiếp thị hàng hoá, tổ trưởng - chuyền trưởng, quản lý chất lượng, quản lý kho hàng, quản lý xuất nhập khẩu.

Tập đoàn dệt may Việt Nam đặt ra nhiệm vụ có tính chiến lược cho 03 Viện nghiên cứu và 4 trường đào tạo không chỉ nghiên cứu, đào tạo cho Tập đoàn mà phải thực hiện nhiệm vụ đó cho toàn Ngành, trong đó có việc đào tạo đội ngũ thiết kế thời trang. Viện mẫu thời trang Fadin, đang là hạt nhân nòng cốt trong định hướng cho các nhà thiết kế thời trang của Việt Nam.

175

Trong những năm qua Vinatex đã cộng tác với các tổ chức thiết kế một số nước như Anh, Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore, Mỹ thực hiện việc đào tạo đội ngũ thiết kế cho các doanh nghiệp.

Đội ngũ thiết kế của Việt Nam còn mang nặng tính sân khấu, chưa gắn kết với đời sống xã hội. Chu kỳ sống của sản phẩm dệt, may là rất ngắn do vậy các nhà thiết kế cần phải hết sức năng động, thường xuyên thay đổi thiết kế sản phẩm để xã hội chấp nhận được.

3.4.2. Hỗ trợ xây dựng hình ảnh ngành Dệt may

Xây dựng bảo tàng Dệt may và nguồn vốn để xúc tiến phát triển các thị trường mới từ nguồn vốn của quĩ xúc tiến thương mại của Bộ Công Thương.

Liên kết chặt chẽ và nâng cao vai trò và tăng cường hơn nữa chức năng hoạt động của Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) trong việc tổ chức thông tin kịp thời tình hình thị trường cho doanh nghiệp, tổ chức các hoạt động xây dựng hình ảnh tốt đẹp về ngành dệt may Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm, xúc tiến xây dựng một số thương hiệu nổi tiếng mang tính quốc gia tại các thị trường xuất khẩu, tổ chức các hoạt động xâm nhập mạng lưới bán lẻ tại thị trường nước ngoài...

Tổ chức tốt các hoạt động thông tin về thị trường, về đầu tư, về sản xuất, về nhập khẩu của ngành dệt may trên các trang website và các bản tin hàng tháng. Thành lập các trung tâm giao dịch, tư vấn, hỗ trợ dịch vụ; trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu; trung tâm thương mại, nhằm giới thiệu sản phẩm, trực tiếp với người tiêu dùng và qua đó tìm các biện pháp để thâm nhập thị trường.

3.4.3. Hỗ trợ nâng cao năng lực Viện dệt may Việt Nam và xây dựng trường đào tạo cán bộ quản lý ngành dệt may, đồng thời thành lập Ban chỉ đạo liên ngành

Hỗ trợ 48 tỷ từ nguồn vốn ngân sách và vốn ODA để nâng cao năng lực của Viện Dệt may, trở thành trung tâm thiết kế, kiểm tra chất lượng sản phẩm dệt may, thông tin và tư vấn chuyên ngành dệt may, ngang tầm quốc tế.

176

Hỗ trợ vốn ngân sách 27 tỷ cho xây dựng một Trường đào tạo cán bộ quản lý Dệt May và khoảng 120 tỷ cho chương trình đào tạo 300 chuyên gia quản lý và công nghệ Dệt may ở nước ngoài từ nay đến năm 2015.

Ban chỉ đạo liên ngành do Bộ Công Thương làm đầu mối với sự tham gia của đại diện các Bộ: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Thương binh xã hội, Bộ khoa học và Công nghệ, Bộ Giáo dục & Đào tạo, Tổng cục Thống kê, Hiệp hội Dệt may Việt Nam và Tập đoàn Dệt may Việt Nam với nhiệm vụ :

- Theo dõi, kiểm tra và chỉ đạo việc triển khai thực hiện chiến lược

- Là đầu mối thu thập thông tin, giới thiệu cơ hội đầu tư, xúc tiến kêu gọi đầu tư, hướng dẫn các thủ tục đầu tư thực hiên triển khai chiến lược

- Thu thập các ý kiến phản hồi của các doanh nghiệp để đề xuất các giải pháp, các điều chỉnh hợp lý nhằm triển khai chiến lược sát với thực tiễn.

3.4.4. Hỗ trợ phát triển mạng lưới tiêu thụ

Tiếp tục phát triển mạng lưới tiêu thụ để chiếm lĩnh thị trường nội địa. Tập đoàn dệt may (VINATEX) có thể là đầu mối tập hợp các doanh nghiệp dệt may trong cả nước để hình thành hệ thống cửa hàng - siêu thị kinh doanh hàng thời trang dệt may, trước hết mở tại các thành phố lớn để trong một vài năm tới hệ thống cửa hàng - siêu thị này sẽ có mặt tại hầu hết các tỉnh thành, thành phố lớn trong cả nước.

Vinatex hiện có 58 hệ thống siêu thị bán lẻ trên 28 tỉnh, thành phố, phấn đấu đến năm 2015 sẽ có khoảng 100 siêu thị bán lẻ trên cả nước.

3.4.5. Cải tiến các chính sách có liên quan trực tiếp tới người lao động

Hiệp hội Dệt may dự kiến, tổng lao động trong ngành vào năm 2010 sẽ khoảng 2,5 triệu người, và đến 2020 sẽ ở mức 3 triệu người. Với số lượng đông như vậy, việc ổn định lao động trong doanh nghiệp là rất khó, nếu không có những giải pháp hiệu quả. Để giữ chân được lao động, trước hết


ngành dệt may phải tích cực cải thiện chính sách tiền lương, đảm bảo mức sống của người lao động. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần quan tâm hơn tới điều kiện sống của công nhân.

Đặc biệt, trước những biến động tranh chấp nguồn lực lao động, ngành dệt may cần tái bố trí lại, từng bước di dời địa điểm sản xuất từ các khu đô thị và khu công nghiệp lớn đến vùng có lao động nông nhàn. Đối với ngành may, không nên tập trung các doanh nghiệp may vào khu công nghiệp, mà nên rải đều ở các vùng nông thôn có lực lượng lao động lớn và có hệ thống giao thông thuận tiện. Điều này sẽ góp phần giảm bớt áp lực liên quan tới lao động của ngành may.

Ngoài ra, vai trò của công đoàn và tăng cường vai trò đại diện của người sử dụng lao động cần được phát huy. Công đoàn sẽ đưa ý kiến của người lao động và quan điểm của người sử dụng lao động đến gần nhau hơn, hạn chế hiện tượng đình công, bãi công. Hiệp hội Dệt may cùng với công đoàn cần khảo sát và xây dựng thỏa ước lao động phù hợp.


Kết luận chương 3


Từ việc xác định các cơ hội, nguy cơ đang đặt ra cho ngành dệt may Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp may nói riêng, với xu thế biến động về nhu cầu thị trường, các giải pháp nêu ra ở chương 3 nhằm mục tiêu phát huy những thành công và khắc phục những hạn chế trong quá trình xây dựng và quản lý thương hiệu của các doanh nghiệp may Việt Nam đã được nêu ở chương 2. Vai trò của các cơ quan quản lý Nhà nước, Hiệp hội Dệt may... cũng đã được đề cập đến trong các giải pháp nhằm hỗ trợ tích cực hơn cho các doanh nghiệp may trong quá trình xây dựng và quản lý thương hiệu sản phẩm.


KẾT LUẬN


Xây dựng và quản lý thương hiệu là một hoạt động vô cùng cần thiết và hết sức ý nghĩa đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập. Sự phát triển không ngừng và những đóng góp hết sức to lớn của các doanh nghiệp may Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chứng tỏ vai trò của hoạt động quản trị này là rất quan trọng.

Trong quá trình dịch chuyển cơ cấu đơn hàng từ gia công (CMT) sang xuất khẩu trực tiếp (FOB) chính những sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra, các doanh nghiệp may Việt Nam cần hết sức nỗ lực trong xây dựng và quản lý thương hiệu sản phẩm. Bởi lẽ, sản phẩm là một thương hiệu sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hành vi mua hàng của người tiêu dùng. Khách hàng dễ dàng tin tưởng và trung thành với sản phẩm có thương hiệu, thậm chí còn tự quảng bá cho những sản phẩm mà khách hàng ưa thích. Đó là cơ sở giúp cho doanh nghiệp tồn tại có hiệu quả và bền vững.

Dưới góc nhìn “quản trị”, luận án đã tập hợp, phân tích, đánh giá và nêu ra quan niệm riêng của mình về “thương hiệu” để từ đó đúc rút ra quy trình xây dựng và quản lý thương hiệu sản phẩm.

Quá trình xây dựng và quản lý thương hiệu đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư không ít thời gian, công sức và tiền bạc. Song không phải doanh nghiệp nào đầu tư cũng thành công, đạt được kết quả như mong muốn. Không phải doanh nghiệp nào đầu tư cho xây dựng và quản lý thương hiệu, các sản phẩm, dịch vụ của họ đều trở thành những thương hiệu và thương hiệu mạnh. Đầu tư mới chỉ là điều kiện cần, còn đầu tư như thế nào cho phù hợp với điều kiện thực tế của doanh nghiệp, của sản phẩm, của thị trường… mới là điều kiện đủ để dẫn tới thành công.


Bằng việc khảo sát thực tiễn hoạt động xây dựng và quản lý thương hiệu của các doanh nghiệp may trong tập đoàn dệt may Việt Nam và nghiên cứu điển hình trường hợp Tổng công ty may Việt Tiến và Tổng công ty cổ phần may Nhà bè, cho thấy bức tranh sinh động về thực trạng xây dựng và quản lý thương hiệu sản phẩm để từ đó có cái nhìn đúng mức hơn về những vấn đề cấp thiết cần được giải quyết.

Khảo sát “Cảm nhận của người tiêu dùng với các sản phẩm may Việt Tiến” giúp chúng ta đánh giá được kết quả của những nỗ lực mà Tổng công ty may Việt Tiến đã tiến hành trong quá trình xây dựng và quản lý thương hiệu sản phẩm. Đồng thời, từ khảo sát này giúp Việt Tiến tìm ra những hoạt động trọng tâm cũng như những vấn đề cần được cải tiến trong xây dựng và quản lý thương hiệu.

Luận án đã cụ thể hoá các bước công việc mà các doanh nghiệp may Việt Nam cần thực hiện trong quá trình xây dựng và quản lý thương hiệu sản phẩm, đồng thời nhấn mạnh những công việc cần đặc biệt chú trọng trong quá trình thực hiện mục tiêu của quá trình này. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, khi các doanh nghiệp may Việt Nam đã hội nhập tương đối sâu vào nền kinh tế quốc tế, để có thể trụ vững cả ở “sân nhà” và “sân người” với hoàn cảnh riêng có của mỗi doanh nghiệp, đòi hỏi phải có sự cân nhắc vô cùng kỹ lưỡng trong việc tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhằm tạo dựng thương hiệu cho các sản phẩm của mình.

Những vấn đề cần được nghiên cứu tiếp:

- Giá trị thương hiệu và ứng dụng phương pháp xác định giá trị thương hiệu cho các sản phẩm may của các doanh nghiệp may Việt Nam

- Xây dựng và quản lý thương hiệu doanh nghiệp

Xem tất cả 217 trang.

Ngày đăng: 01/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí