khấu hao, sao cho tiền gốc được trả lại dần dần theo thời gian và ngày đáo hạn của chứng khoán thường không được xác định. MBS (mortage-backed securitization) là chứng khoán (trái phiếu) được phát hành dựa trên cơ sở một hoặc một nhóm tài sản thế chấp (bất động sản). Người phát hành chứng khoán thanh toán cho nhà đầu tư bằng dòng tiền phát sinh từ những khoản thế chấp được dùng để bảo đảm cho chứng khoán. Khi đáo hạn, trái phiếu này sẽ có giá trị bằng 0, nghĩa là khi số tiền gốc được hoàn trả dần thì tiền lãi và giá trị của trái phiếu này cũng sẽ giảm dần [51].
Nhìn chung, bản chất của chứng khoán hóa nợ xấu của ngân hàng thương mại là chuyển rủi ro từ ngân hàng thương mại sang phía các nhà đầu tư thông qua việc nhà đầu tư mua chứng khoán được tạo lập bởi chứng khoán hóa nợ xấu. Ngân hàng thương mại sẽ thu được tiền từ việc bán các khoản nợ cho tổ chức trung gian chuyên trách thực hiện chứng khoán hóa các khoản nợ xấu.
Chứng khoán hóa nợ xấu và chuyển khoản nợ thành vốn góp có sự khác biệt rõ rệt. Phương pháp chuyển nợ thành vốn cổ phần, thường được sử dụng tại các nước thực hiện đồng thời chương trình tái cơ cấu khu vực ngân hàng và khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước. Chuyển nợ thành vốn góp là việc ngân hàng thay vì thu hồi tiền nợ đã cho doanh nghiệp vay, họ sẽ lấy khoản nợ phải thu đó để mua chính cổ phần của doanh nghiệp hoặc một số nhà đầu tư quan tâm mua lại chính khoản nợ đó từ ngân hàng với giá tương đương hoặc theo thỏa thuận. Qua đó, ngân hàng sẽ trở thành chủ sở hữu của doanh nghiệp, đầu tư thêm vốn để tái cơ cấu lại toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp từ tổ chức nhân sự đến hoạt động kinh doanh và định hướng phát triển doanh nghiệp. Phương pháp chuyển nợ thành vốn góp cũng giúp giảm thiểu nợ xấu của ngân hàng thương mại, tăng nguồn vốn do vốn vay chuyển thành khoản đầu tư của ngân hàng. Bản chất của hoạt
động chuyển nợ thành vốn góp là ngân hàng đầu tư vào doanh nghiệp và trở thành chủ sở hữu của doanh nghiệp, tham gia vào tái cơ cấu hoạt động của doanh nghiệp. Đối tượng áp dụng thường là đối với khoản nợ của các doanh nghiệp gặp khó khăn tạm thời trong hoạt động kinh doanh, có khả năng phục hồi nếu được bổ sung nguồn vốn. Trong khi đó, các nhà đầu tư của chứng khoán hóa nợ xấu của ngân hàng thương mại chỉ đóng vai trò là chủ nợ mới của khoản nợ mà không tham gia vào hoạt động kinh doanh, tái cơ cấu của doanh nghiệp. Ngân hàng thương mại sau khi bán các khoản nợ cho tổ chức trung gian chuyên trách sẽ chuyển khoản nợ ra khỏi bảng cân đối kế toán. Đối tượng được áp dụng chứng khoán hóa nợ xấu không chỉ là các doanh nghiệp nói chung cũng như doanh nghiệp nhà nước nói riêng mà còn có thể là các cá nhân. Như vậy, chứng khoán hóa nợ xấu và chuyển nợ thành vốn góp có sự khác biệt rõ rệt về bản chất, đối tượng áp dụng.
1.2.3. Điều kiện thực hiện chứng khoán hóa các khoản nợ xấu của ngân hàng thương mại
Trong thực tế, thực hiện chứng khoán hóa nợ xấu khá phức tạp đòi hỏi đáp ứng các điều kiện khắt khe.
Trước hết, cần có một lượng lớn sản phẩm để duy trì “bộ máy” chứng khoán hóa. Nói cách khác, các khoản nợ xấu phải đủ lớn để có thể thực hiện và đảm bảo hoạt động chứng khoán hóa. Ví dụ điển hình chứng khoán hóa ở Mỹ, khi Mỹ là nền kinh tế lớn, có lượng lớn người vay và người cho vay. Tín dụng tiêu dùng và tài chính nhà ở chính là lượng sản phẩm lớn để phát triển thị trường chứng khoán hóa.
Bên cạnh đó, các trung gian tài chính (cơ quan phát hành, bảo lãnh phát hành, tổ chức xếp hạng tín dụng,...) phải thực sự có uy tín, có năng lực để cấu trúc và mô hình hóa các sản phẩm đầu tư. Điều này đòi hỏi các trung gian tài chính phải có kỹ thuật, năng lực chuyên môn về chứng khoán hóa. Quá trình
chứng khoán hóa không được tách rời quá trình tái cơ cấu tổ chức tín dụng.
Điều kiện tiếp theo để chứng khoán hóa nợ xấu là thị trường vốn. Một thị trường vốn phát triển sẽ bù đắp cho hoạt động thiếu hiệu quả của nguồn vốn trong ngành ngân hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Xây dựng pháp luật về chứng khoán hóa các khoản nợ xấu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 1
- Xây dựng pháp luật về chứng khoán hóa các khoản nợ xấu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 2
- Khái Niệm, Đặc Điểm, Vai Trò Của Chứng Khoán Hóa Các Khoản Nợ Xấu Của Ngân Hàng Thương Mại
- Tình Hình Nợ Xấu Của Các Ngân Hàng Trong Cuối Năm 2018 Và 6 Tháng Đầu Năm 2019
- Tổ Chức Phát Hành Chứng Khoán Hóa (Securitisation Special Purpose Entity-Sspe/ Securitisation Special Purpose Vehicle-Sspv)
- Đối Tượng Của Chứng Khoán Hóa Các Khoản Nợ Xấu Của Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.
Ngoài ra, thiết lập hành lang pháp lý đầy đủ, kịp thời là điều kiện rất quan trọng, đảm bảo cho việc chứng khoán hóa nợ xấu được thực thi nghiêm túc, nhanh chóng, công khai, minh bạch, hiệu quả, giảm thiểu tối đa các tranh chấp, xung đột lợi ích và những tác động bất lợi từ khủng hoảng tín dụng. Hệ thống pháp lý rõ ràng sẽ khuyến khích sự tham gia của các tổ chức và cá nhân, tạo ra sự chủ động thúc đẩy phát triển hoạt động chứng khoán hóa. Việc ban hành kịp thời các quy định tạo cơ sở pháp lý rõ ràng về cơ chế phối hợp, sử dụng nguồn lực và quyền hạn của các cơ quan chức năng và tổ chức tài chính. Các ngân hàng có thể kịp thời lựa chọn các biện pháp xử lý nợ xấu phù hợp nhằm nhanh chóng xử lý dứt điểm nợ xấu, không gây ảnh hưởng đến hệ thống tín dụng, cải thiện và phục hồi hệ thống tài chính, ngân hàng với chi phí thấp nhất [32].
1.2.4. Ý nghĩa, vai trò của chứng khoán hóa các khoản nợ xấu của ngân hàng thương mại
Đối với các ngân hàng, chứng khoán hóa các khoản nợ xấu có vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu các khoản nợ xấu của ngân hàng thương mại đồng thời giúp ngân hàng thu hồi được khoản tiền từ nợ xấu và hạn chế rủi ro mất vốn do nợ xấu đem lại. Chứng khoán hóa vừa là công cụ xử lý nợ xấu hiệu quả vừa giúp các ngân hàng đa dạng hóa nguồn tài chính của họ, giảm các chi phí tài chính. Quá trình chứng khoán hóa có thể biến tài sản kém thanh khoản thành tài sản thanh khoản; giải phóng vốn cho các chủ tài sản ban đầu; cung cấp thu nhập cho các nhà đầu tư; đặc biệt, cho phép các nhà đầu tư nhỏ tham gia [46]. CKH được coi là giải pháp giải quyết được vấn đề
phụ thuộc vào vốn huy động của các NHTM, giảm được áp lực cạnh tranh trong những giai đoạn có vấn đề về thanh khoản, tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện thành công quản trị rủi ro của mình thông việc tái cấu trúc danh mục tài sản trong hoạt động tín dụng [5].
Chứng khoán hóa đã góp phần thay đổi mô hình kinh doanh của các ngân hàng. Trong khi nguồn gốc của các khoản vay vẫn chủ yếu là tại trong nước, chứng khoán hóa có thể tạo ra quỹ cho vay toàn cầu có thể giao dịch và có sẵn cho các nhà đầu tư. Do đó, các ngân hàng có thể duy trì hoạt động và có khả năng tăng trưởng. Sự phát triển của chứng khoán hóa có thể bị thay thế trong bối cảnh rộng lớn hơn của việc thể chế hóa tiết kiệm. Cụ thể, có một sự thay đổi tương đối trong các mô hình tiết kiệm, trong đó sự tăng trưởng trong các sản phẩm thị trường như quỹ thị trường tiền tệ và quỹ tương hỗ đã tăng dần [13]. Về phía ngân hàng cũng đã có sự tăng trưởng đáng kể trong thị trường vốn do nhu cầu cho vay thường vượt xa tiền gửi có sẵn và các ngân hàng sử dụng chứng khoán hóa làm phương tiện hỗ trợ. Chứng khoán hóa gia tăng quy trình phi trung gian bằng cách chuyển nhiều tài sản hơn vào thị trường vốn. Quá trình diễn ra song song với gia tăng nhu cầu bắt nguồn từ sự tăng trưởng của các nhà đầu tư là tổ chức phi ngân hàng như quỹ tương hỗ, tập đoàn bảo hiểm, lương hưu và quỹ tối cao.
Chứng khoán hóa và các công cụ thị trường rủi ro tín dụng làm giảm bớt rủi ro của nhiều nhà đầu tư như rủi ro tín dụng có thể được chuyển đổi dễ dàng hơn và có tiềm năng mở rộng chuyển đổi qua hệ thống tài chính. Quá trình thực hiện chứng khoán hóa chính là quá trình chuyển giao rủi ro, nghĩa là rủi ro ban đầu của chủ thể cho vay này sẽ được chuyển cho các chủ thể khác tham gia trong quá trình chứng khoán hóa. Nhờ đó, chứng khoán hóa giúp giảm thiểu rủi ro các khoản nợ, nâng cao chất lượng tín dụng. Nếu tổng rủi ro vẫn còn trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán hóa cho phép các
ngân hàng nắm giữ ít rủi ro hơn do sự đa dạng hóa và có khả năng giao dịch hơn. Sự chuyển giao của rủi ro tín dụng có thể cung cấp việc sử dụng vốn ngân hàng hiệu quả hơn và giảm chi phí huy động vốn cho vay trung gian kéo theo đó chi phí tín dụng thấp hơn. Hơn nữa, việc thị trường định giá cung cấp thông tin giá trị cho các ngân hàng cũng như các nhà đầu tư và cơ quan công quyền [22].
Chứng khoán hóa theo các điều kiện thông thường làm tăng tính thanh khoản trong thị trường tín dụng. Nó mang lại nhiều công cụ giao dịch, phòng ngừa cũng như cải thiện danh mục và cung cấp đầu tư trong các loại tín dụng khác nhau từ đó hoàn thiện thị trường tín dụng. Đồng thời, do các vấn đề giữa những người quản lý quỹ và những nhà đầu tư cuối cùng, chuyển rủi ro tín dụng có thể cũng tạo ra các ưu đãi cho các ngân hàng để chấp nhận rủi ro quá mức [13].
Chứng khoán hóa tác động đến tín dụng và cơ chế chuyển giao của chính sách tiền tệ. Dưới góc độ kinh tế vĩ mô, chứng khoán hóa mang lại những thay đổi mạnh mẽ trong các thị trường chứng khoán do đó thay đổi thị trường cho vay. Một trong những kết quả được dự đoán của chứng khoán hóa là sự gia tăng tổng thể trong tổng cung của các khoản vay. Các ngân hàng có thể tiếp cận nguồn vốn bổ sung bằng cách chứng khoán hóa một phần tài sản. Sau đó, có thể được sử dụng để cấp các khoản vay bổ sung. Bên cạnh đó, việc loại bỏ hoàn toàn các khoản vay từ bảng cân đối kế toán của các ngân hàng thường có thể có được sự hỗ trợ vốn theo quy định, cũng có thể được sử dụng để mở rộng nguồn cung cho vay. Chứng khoán hóa cũng làm thay đổi chức năng giám sát được thực hiện bởi ngân hàng. Cụ thể bởi các công cụ chuyển dịch từ bảng cân đối kế toán của ngân hàng tới các thị trường có thể ít ưu đãi hơn cho các trung gian tài chính để sàng lọc khách hàng vay. Về lâu dài, sự thay đổi trong các ưu đãi được dự kiến sẽ dẫn đến tỷ lệ vỡ nợ cao hơn đối với
các khoản vay ngân hàng. Những sự thay đổi trong vai trò của các ngân hàng cũng được dự đoán có một cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ thông qua kênh được gọi là kênh tín dụng của chính sách tiền tệ và đặc biệt hơn là trên kênh cho vay của ngân hàng hoặc kênh tín dụng hẹp. Đơn giản, kênh tín dụng tập trung vào cách những sự không hoàn hảo về tài chính trong thị trường tín dụng (như sự bất đối xứng thông tin giữa người cho vay và người vay) sẽ ảnh hưởng tới cung cấp và các điều kiện tín dụng. Liên quan tới kênh mở rộng tín dụng, tăng trưởng thanh khoản và định giá liên tục hơn các sản phẩm của thị trường tín dụng, cũng như sự chuyển đổi song song sang chuẩn mực kế toán giá trị hợp lý được cung cấp bởi các công cụ chuyển rủi ro tín dụng, có thể đã nhấn mạnh sự nhạy cảm với những thay đổi trong chính sách tiền tệ đối với phí bảo hiểm tài chính bên ngoài mà người vay phải đối mặt khi cố gắng tăng tài chính [50].
Chứng khoán hóa cũng tạo thêm nhiều loại chứng khoán mới cho thị trường chứng khoán. Các nhà đầu tư có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư, có nhiều lựa chọn hơn trong việc đầu tư chứng khoán. Đồng thời, tính thanh khoản cho thị trường tài chính cũng được nâng cao, giúp các chủ thể phát hành các khoản nợ có cơ hội huy động những nguồn vốn mới [13].
Thông qua việc làm cho các ngân hàng phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn vốn thị trường, chứng khoán hóa có thể thắt chặt kết nối giữa ngân hàng và thị trường tài chính. Kết quả là, những ưu đãi của ngân hàng và khả năng cho vay được dự đoán sẽ phụ thuộc vào điều kiện thị trường tài chính ở mức độ lớn hơn so với trước đây khi các ngân hàng được hỗ trợ rất nhiều thông qua tiền gửi ngân hàng [50]. Điều này chủ yếu là do tiền gửi có xu hướng có mức tăng trưởng ổn định hơn và ít phụ thuộc vào điều kiện thị trường tài chính hơn các công cụ có thể giao dịch. Tóm lại, chứng khoán hóa có thể có một tác động
đáng kể đến khả năng cấp tín dụng của ngành ngân hàng.
Ngoài ra, chứng khoán hóa có tác động đến việc chấp nhận rủi ro. Các hoạt động chứng khoán hóa có khả năng ảnh hưởng tới các ưu đãi của ngân hàng đối với rủi ro mang lại. Sự tác động của hoạt động chứng khoán hóa trong rủi ro ngân hàng mang lại nhiều mặt. Một mặt, cơ chế chứng khoán hóa và chuyển giao rủi ro tín dụng cho phép các ngân hàng chuyển rủi ro ra ngoài bảng cân đối kế toán cũng như để đạt được danh mục đầu tư và tài trợ đa dạng hóa dễ dàng hơn. Mặt khác, chứng khoán hóa cũng có thể khiến các ngân hàng chấp nhận rủi ro bổ sung cho dù bằng cách sử dụng nguồn vốn có được từ chứng khoán hóa để cấp tín dụng rủi ro hơn hay đơn giản bằng cách mua rủi ro tín dụng dễ dàng hơn trên thị trường.
Tóm lại, chứng khoán hóa có ý nghĩa và vai trò quan trọng đối với việc xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại. Do đó, cần tạo điều kiện để thúc đẩy sự phát triển của chứng khoán hóa trên thị trường chứng khoán.
1.3. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động chứng khoán hóa các khoản nợ xấu của ngân hàng thương mại
Chứng khoán hóa là một phần nền tảng phát triển ngành tài chính tại các nước trên thế giới. Từ những ý nghĩa của chứng khoán hóa đã phân tích ở trên, việc áp dụng chứng khoán hóa vào giải quyết nợ xấu là cần thiết và cần phải nhanh chóng được áp dụng. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích của chứng khoán hóa, vẫn còn tồn tại nhiều nhược điểm. Cụ thể, các nhà đầu tư đảm nhận vai trò chủ nợ sẽ phải chịu nhiều rủi ro do thiếu hiểu biết về các sản phẩm nợ hoặc các tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu thiếu minh bạch; thanh toán nợ sớm gây thiệt hại tới lợi nhuận của nhà đầu tư [46].
Chứng khoán hóa cung cấp cho các chủ nợ một cơ chế giảm rủi ro thông qua việc nhiều nhà đầu tư cùng sở hữu một nghĩa vụ [46]. Nói cách
khác, chứng khoán được tạo ra bởi hoạt động chứng khoán hóa nợ xấu được mua bởi nhiều nhà đầu tư khác nhau. Tuy nhiên, điều đó không có lợi nếu người nắm giữ khoản vay phá sản và số ít có thể nhận ra thông qua việc bán tài sản của họ. Các đợt phát hành chứng khoán cũng có thể mang lại rủi ro ở các mức độ khác nhau. Thực tế, các nhà đầu tư thường không hiểu các sản phẩm nợ cơ bản mà họ mua nên họ dễ gặp rủi ro. Bên cạnh đó, các tài sản cơ bản được nhóm lại để bảo đảm cho chứng khoán thường thiếu minh bạch do không có sự kiểm soát chặt chẽ từ các quy định pháp luật.
Một vấn đề cũng không được quy định rõ ràng là việc người vay có thể thanh toán nợ sớm dẫn đến rủi ro đối với các nhà đầu tư. Trong trường hợp các khoản thế chấp nhà, nếu lãi suất giảm, họ có thể tái cấp vốn nợ. Trả nợ sớm sẽ giảm lợi nhuận các nhà đầu tư nhận được từ lợi ích từ các chứng khoán mà họ đã mua [49].
Thực tế cho thấy rằng, không thể thực hiện chứng khoán hóa khi chưa có một hệ thống pháp lý đầy đủ, rõ ràng, cụ thể. Việc thiết lập hành lang pháp lý đầy đủ, rõ ràng sẽ đảm bảo cho các biện pháp xử lý nợ xấu mà cụ thể là chứng khoán hóa nợ xấu được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả, công khai, minh bạch, giảm thiểu tối đã các tranh chấp, xung đột lợi ích và những tác động bất lợi từ khủng hoảng tín dụng. Bên cạnh đó, điều chỉnh bằng pháp luật đối với chứng khoán hóa sẽ giúp giảm thiểu rủi ro đối với các với bên tham gia vào hoạt động chứng khoán hóa, hạn chế được các bất lợi trong quá trình chứng khoán hóa. Đồng thời, các tổ chức tín dụng cũng sẽ có lựa chọn và thực thi các biện pháp xử lý nợ xấu được hiệu quả, ngăn chặn được nợ xấu, không gây ảnh hưởng tới hệ thống tài chính.
Ở Việt Nam, theo Báo cáo tóm tắt hoạt động ngân hàng năm 2019, phương hướng, nhiệm vụ năm 2020 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tính