khăn 80%) trở lên. Ít nhất 80% (xã đặc biệt khó khăn 70%) số trẻ nhóm tuổi 11
- 14 tốt nghiệp tiểu học, số trẻ em còn lại trong độ tuổi này đang học tiểu học. Huy động 95% (xã đặc biệt khó khăn 80%) trở lên học sinh tốt nghiệp tiểu học hàng năm vào học lớp 6 trung học cơ sở phổ thông, bổ túc. Bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất, thực hiện dạy đủ các môn học của chương trình. Hai là, tỉ lệ tốt nghiệp trung học cơ sở hàng năm từ 90% (xã đặc biệt khó khăn 70%) trở lên. Ba là, tỷ lệ thanh, thiếu niên từ 15 đến hết 18 tuổi có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở cả hai hệ từ 80% (xã đặc biệt khó khăn 70%) trở lên. Mục tiêu đến năm 2015 có 45% số xã đạt chuẩn, đến năm 2020 có 80% số xã đạt chuẩn.
2.2.3.7. Phát triển y tế, chăm sóc sức khoẻ cư dân nông thôn
Nội dung tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia trong lĩnh vực Y tế (Chủ động phòng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm. Phát hiện dịch sớm, dập tắt dịch kịp thời, không để dịch lớn xảy ra. Giảm tỷ lệ mắc, tỷ lệ chết do một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm, góp phần thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống. Hình thành hệ thống chăm sóc sức khỏe đồng bộ từ trung ương đến cơ sở và nâng cao ý thức giữ gìn sức khỏe của nhân dân, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc), đáp ứng yêu cầu Bộ tiêu chí quốc gia NTM. Mục tiêu đến năm 2015 có 50% số xã đạt chuẩn, đến năm 2020 có 75% số xã đạt chuẩn.
2.2.3.8. Xây dựng đời sống văn hoá, thông tin và truyền thông nông thôn
Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia NTM về văn hoá, đáp ứng yêu cầu Bộ tiêu chí quốc gia NTM. Thực hiện thông tin và truyền thông nông thôn, đáp ứng yêu cầu Bộ tiêu chí quốc gia NTM. Mục tiêu đến năm 2015 có 30% số xã có nhà văn hoá xã, thôn; 45% số xã có bưu điện, điểm internet đạt chuẩn. Đến năm 2020 có 75% số xã có nhà văn hoá xã, thôn; 70% có điểm bưu điện, điểm internet đạt chuẩn.
2.2.3.9. Cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn
Môi trường có vị trí quan trọng trong quá trình tồn tại, phát triển của mỗi con người. Môi trường bao gồm môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
Có thể bạn quan tâm!
- Xây Dựng Nông Thôn Mới Trong Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội
- Những Yêu Cầu Đặt Ra Đối Với Chương Trình Xây Dựng Nông Thôn Mới Trong Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội
- Nội Dung Xây Dựng Nông Thôn Mới Trong Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội Địa Phương
- Kinh Nghiệm Xây Dựng Nông Thôn Mới Trong Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội
- Bài Học Cho Xây Dựng Nông Thôn Mới Trong Phát Triển Kinh Tế
- Tiền Đề Để Xây Dựng Nông Thôn Mới Trong Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội Ở Tỉnh Bắc Ninh
Xem toàn bộ 172 trang tài liệu này.
Mỗi sự xáo trộn trong môi trường tự nhiên, môi trường xã hội sẽ tác động trực tiếp đến cuộc sống của con người. Cùng với quá trình CNH, HĐH, nhiều vấn đề môi trường nảy sinh, nhất là tình trạng ô nhiễm môi trường. Trong giai đoạn đầu của phát triển, có những vấn đề nổi bật về môi trường đó là: Một mặt, vấn đề môi trường do chính người dân nông thôn gây nên như, nạn chặt phá rừng đầu nguồn gây ra lũ lụt, việc sử dụng các loại thuốc trừ sâu, phân bón hóa học, các chất kích thích tăng trưởng, nước thải trong chăn nuôi và sinh hoạt hàng ngày... Mặt khác, nông thôn và người dân sống ở nông thôn là nạn nhân gánh chịu hậu quả của việc ô nhiễm môi trường sống do các chất thải công nghiệp, chất thải sinh hoạt của các khu công nghiệp, đô thị gây ra. Do đó, nội dung được xác định: Một là, tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, nhằm cải thiện điều kiện cung cấp nước sạch, vệ sinh, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi vệ sinh. giảm thiểu ô nhiễm môi trường, góp phần nâng cao sức khỏe, chất lượng sống cho người dân nông thôn. Hai là, xây dựng các công trình bảo vệ môi trường nông thôn trên địa bàn xã, thôn theo quy hoạch, gồm: xây dựng, cải tạo nâng cấp hệ thống tiêu thoát nước trong thôn, xóm; xây dựng các điểm thu gom, xử lý rác thải ở các xã; chỉnh trang, cải tạo nghĩa trang; cải tạo, xây dựng các ao, hồ sinh thái trong khu dân cư, phát triển cây xanh ở các công trình công cộng… Mục tiêu đảm bảo cung cấp đủ nước sinh hoạt sạch, hợp vệ sinh cho dân cư, trường học, trạm y tế, công sở, các khu dịch vụ công cộng; thực hiện các yêu cầu về bảo vệ, cải thiện môi trường sinh thái trên địa bàn xã. Đến năm 2015 có 35% số xã đạt chuẩn, đến năm 2020 có 80% số xã đạt chuẩn.
2.2.3.10. Nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, Chính quyền, đoàn thể
chính trị - xã hội trên địa bàn
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X xác định vị trí, vai trò chiến lược của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó có vai trò to lớn thuộc về hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn. Nội dung nâng
cao chất lượng tổ chức Đảng, Chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội được xác định: Một là, tổ chức đào tạo cán bộ đạt chuẩn theo quy định của Bộ Nội vụ, đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới. Hai là, ban hành chính sách khuyến khích, thu hút cán bộ trẻ đã được đào tạo, đủ tiêu chuẩn về công tác ở các xã, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn để nhanh chóng chuẩn hoá đội ngũ cán bộ ở các vùng này. Ba là, bổ sung chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng NTM. Mục tiêu đến năm 2015 có 85% số xã đạt chuẩn, năm 2020 là 95% số xã đạt chuẩn.
2.2.3.11. Giữ vững an ninh, trật tự xã hội nông thôn
Nội dung giữ vững an ninh, trật tự xã hội nông thôn: Một là, ban hành nội quy, quy ước làng xóm về trật tự, an ninh; phòng chống các tệ nạn xã hội và các hủ tục lạc hậu. Hai là, điều chỉnh, bổ sung chức năng, nhiệm vụ và chính sách tạo điều kiện cho lượng lực lượng an ninh xã, thôn, xóm hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo an ninh, trật tự xã hội trên địa bàn theo yêu cầu xây dựng NTM. Mục tiêu đến 2015 có 85% số xã đạt chuẩn, năm 2020 là 95% số xã đạt chuẩn.
2.2.4. Chủ thể tham gia xây dựng nông thôn mới
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Đảng ta đã khẳng định: “Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”. Tinh thần đó tiếp tục được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng: “Xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, giàu đẹp, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của Nhà nước, “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với các cấp ủy, các tổ chức đoàn thể quần chúng phát động phong trào thi đua yêu nước, tham gia tích cực thực hiện nghị quyết, xây dựng, triển khai các chương trình “xây dựng nông thôn mới”, “bảo tồn và phát triển làng nghề”, “đào tạo nguồn nhân lực”, “phát triển kinh tế hợp tác trong nông thôn” [26, tr.144-145].
- Nông dân trong xây dựng nông thôn mới
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5-8-2008 Ban Chấp hành Trung ương
khóa X nêu rõ:
Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch căn bản, phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt [26, tr.124].
Vai trò chủ thể trong xây dựng NTM của nông dân thể hiện:
Thứ nhất, nông dân là nguồn nhân lực quan trọng trong phát triển nông nghiệp và xây dựng NTM. Nông dân luôn là lực lượng lao động chủ yếu trong ngành nông nghiệp, là nguồn nhân lực dồi dào, quan trọng, quyết định sự thành công trong xây dựng NTM. Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, nông dân là chủ thể thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và các hoạt động dịch vụ. Điều này đòi hỏi người lao động phải mạnh dạn xóa bỏ cách nghĩ, cách làm cũ, thói quen tiểu nông, phải năng động nắm bắt nhu cầu của thị trường và dự đoán được xu hướng vận động của nó; đồng thời cũng cần có vốn, kỹ thuật, lao động để thực hiện bước chuyển đổi.
Thứ hai, nông dân là chủ thể xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở các vùng nông thôn. Quan hệ giữa những người nông dân là quan hệ tình nghĩa thân thiện, giúp đỡ lẫn nhau, tôn trọng nhau. Giữ gìn những giá trị văn hóa là một nội dung trong xây dựng NTM, nhằm xây dựng một đời sống văn hóa tinh thần tốt đẹp ở các vùng nông thôn. Việc khôi phục, giữ gìn những giá trị văn hóa như: lễ hội, các hoạt động văn nghệ truyền thống như thơ ca, hò vè... là công việc của bà con nông dân. Chỉ khi nào khơi dậy được tính tích cực, nhiệt tình tham gia của quần chúng thì những hoạt động trên mới mang lại những hiệu quả thiết thực.
Thứ ba, nông dân là người trực tiếp xây dựng, giữ gìn, bảo vệ kết cấu hạ tầng nông thôn. Xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH là một nội dung quan
trọng trong xây dựng NTM. Đất nước ta còn nghèo, việc xây dựng đường làng, đường liên thôn, liên xã chủ yếu do nhân dân đóng góp cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước. Những cơ sở vật chất đó do chính những người nông dân ở các vùng nông thôn cùng với Nhà nước xây dựng; đồng thời bảo quản, tăng cường công tác quản lý của chính quyền địa phương đối với hệ thống kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Khi người nông dân nhận thức được tầm quan trọng của hệ thống kết cấu hạ tầng trong phát triển KT - XH, tự giác đóng góp xây dựng cùng với sự giúp đỡ của Nhà nước, của địa phương.
Thứ tư, nông dân là những người trực tiếp tham gia đóng góp xây dựng Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội. Nông dân là những người trực tiếp đóng góp và đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng NTM đi vào cuộc sống. Những yếu tố thuộc về lãnh đạo, quản lý như chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước rất quan trọng đối với việc hoạch định nội dung, bước đi và thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng NTM ở nước ta. Mặt khác, nông dân là lực lượng có vai trò quan trọng trong việc biến những đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng NTM thành hiện thực.
Thứ năm, nông dân là chủ thể giữ gìn an ninh, trật tự ở các vùng nông thôn. Giữ gìn an ninh, trật tự các vùng nông thôn, đảm bảo cuộc sống thanh bình cho bà con nông dân là một nội dung quan trọng trong xây dựng NTM Việt Nam. Muốn giữ gìn không khí thanh bình trong các vùng nông thôn và phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực, từng gia đình phải quan tâm chăm lo giáo dục con cái, giáo dục những đạo lý, những truyền thống tốt đẹp của quê hương; đấu tranh với lối sống lai căng, thực dụng không phù hợp với thuần phong mỹ tục ở địa phương. Các vùng nông thôn cần tăng cường những hoạt động phối hợp cùng nhau giữ gìn, bảo vệ tài sản, an ninh trật tự trong từng địa phương.
Qua đó cho thấy, nông dân là chủ thể tích cực trong xây đựng đời sống văn hóa mới, xây dựng kết cấu hạ tầng; phát triển KT - XH, bảo vệ môi trường sinh thái, làm cho mỗi người được thụ hưởng một cách tốt nhất những giá trị vật chất, tinh thần. Nông dân có vai trò quan trọng trong xây dựng NTM, cùng với các giai cấp, tầng lớp khác phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam XHCN “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
- Các tổ chức trong hệ thống chính trị trong xây dựng nông thôn mới
+ Tổ chức cơ sở Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị cơ sở, bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng được cụ thể hóa và thực hiện thắng lợi ở cơ sở. Đối với tổ chức đảng ở nông thôn, nhiệm vụ chính trị quan trọng nhất là đề ra được chủ trương đúng, biện pháp thiết thực, hành động cụ thể phù hợp với đặc điểm của địa bàn dân cư.
+ Chính quyền cơ sở ở nông thôn là một cấu trúc tổ chức bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xã là chính quyền của nhân dân tại cơ sở, hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức đảng ở cơ sở, thể hiện sinh động sự kết hợp giữa quyền lực nhà nước và quyền tự quản cộng đồng. Sự kết hợp này cho phép chính quyền xã vừa phát huy được vai trò quản lý nhà nước, vừa phát huy được sức mạnh của truyền thống tự quản cộng đồng, tạo sự gắn bó giữa chính quyền với nhân dân trong thực tiễn hoạt động ở làng, xã nông thôn.
+ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội như tổ chức Đoàn Thanh niên cộng sản Hổ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông Dân, Hội Cựu chiến binh ở cơ sở nông thôn được tổ chức, hoạt động dưới sự lãnh đạo của tổ chức đảng cơ sở, là cầu nối giữa Đảng, chính quyền và các tầng lớp nhân dân trong địa bàn. Như vậy, xây dựng NTM là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; cấp ủy đảng, chính quyền đóng vai trò chỉ đạo, điều hành quá trình xây dựng quy hoạch, đề án, kế hoạch, tổ chức thực hiện, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội vận động mọi tầng lớp nhân dân phát huy vai trò chủ thể trong xây dựng NTM.
- Các nhà tài trợ trong xây dựng nông thôn mới
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng NTM tiếp tục được triển khai trên khắp cả nước trong điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp và nông dân đang phải vượt qua những khó khăn của quá trình suy giảm kinh tế. Trong 19 tiêu chí, 11 nội dung bao quát hầu hết các lĩnh vực của phát triển nông thôn, phát triển sản xuất nông nghiệp, tăng thu nhập cho cư dân nông thôn, xây dựng nếp sống văn hóa mới, bảo vệ môi trường vững bền, tiếp tục xóa đói giảm nghèo là các lĩnh vực cần kêu gọi sự hỗ trợ của cộng đồng các nhà tài trợ.
Biện pháp hỗ trợ là thực hiện quy hoạch các vùng chuyên canh, sản xuất nguyên liệu, xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, hỗ trợ nghiên cứu và áp dụng khoa học công nghệ, áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật, đào tạo nghề, hỗ trợ tài chính, tín dụng, tiếp thị và phát triển thị trường, hỗ trợ các hoạt động nâng cao văn hóa tinh thần cho dân cư nông thôn để tạo ra nếp sống mới thông qua phát triển, bảo tồn văn hóa truyền thống... Đồng thời, tuyên truyền nếp sống văn minh, đảm bảo an ninh phòng chống tệ nạn xã hội, chống bạo lực gia đình, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, thực hiện kế hoạch hóa gia đình và nâng cao sức khỏe sinh sản…
Để thu hút các nhà tài trợ đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nói chung, xây dựng nông thôn nói riêng cần đổi mới về cơ chế, hình thức tổ chức thông qua việc thu hút đầu tư doanh nghiệp trong và ngoài nước về nông thôn, phát triển liên kết cộng đồng, đẩy mạnh các hình thức kinh tế hợp tác, xây dựng hiệp hội các ngành hàng với sự tham gia của nông dân nhằm huy động các nguồn lực cho xây dựng NTM.
2.2.5. Trình tự các bước xây dựng nông thôn mới
Bước 1, thành lập Ban Chỉ đạo và Ban quản lý Chương trình NTM. Bước 2, tổ chức tuyên truyền, học tập nghiên cứu các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng NTM. Bước 3, khảo sát đánh giá thực trạng nông thôn theo 19 tiêu chí. Bước 4, lập đề án (kế hoạch) xây dựng NTM (gồm kế hoạch tổng thể đến 2020, kế hoạch 5 năm 2011 - 2015, kế hoạch từng năm cho giai đoạn 2010 -
2015). Bước 5, xây dựng quy hoạch NTM. Bước 6, tổ chức thực hiện đề án (kế hoạch). Bước 7, giám sát, đánh giá và báo cáo định kỳ về tình hình thực hiện dự án.
2.2.6. Nguồn vốn để xây dựng nông thôn mới
Nguồn vốn cho xây dựng NTM được huy động từ sự hỗ trợ trực tiếp của ngân sách trung ương; ngân sách tỉnh; vốn lồng ghép từ các chương trình, dự án; nguồn vốn tín dụng được huy động chủ yếu thông qua hệ thống Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam; Ngân hàng phát triển Việt Nam; vốn huy động từ doanh nghiệp; nguồn vốn từ trong dân cư... Nguồn vốn huy động từ các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp ở các địa phương và trong cùng địa phương giữa các xã là khác nhau. Điều này phụ thuộc vào đặc thù địa lý, tiềm năng mỗi địa phương; cơ chế và cách thức huy động nguồn vốn cho xây dựng NTM. Nguồn vốn huy động nhanh, chậm, nhiều hay ít sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ thực hiện chương trình. Do đó, nguồn vốn là một trong những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc xây dựng NTM.
2.2.6.1. Nguồn vốn đóng góp của cộng đồng
Nguồn vồn này 10%, bao gồm: Công sức, tiền của đầu tư cải tạo nhà ở, xây mới và nâng cấp các công trình vệ sinh phù hợp với chuẩn mới; Cải tạo ao, vườn để có cảnh quan đẹp và có thu nhập; Cải tạo cổng ngõ, tường rào phong quang, đẹp đẽ… Đầu tư cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của hộ gia đình để tăng thu nhập. Đóng góp xây dựng công trình công cộng của làng, xã bằng công lao động, tiền mặt, vật liệu, máy móc thiết bị, hiến đất… (Nếu đóng góp bằng tiền thì cần được cộng đồng bàn bạc quyết định, Hội đồng nhân dân xã thông qua). Đóng góp tự nguyện, tài trợ từ các doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
2.2.6.2. Vốn đầu tư của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ tư nhân và các
loại hình kinh tế khác
Nguồn vốn này khoảng 20%, bao gồm: Đầu tư xây dựng các công trình công cộng có thu phí để thu hồi vốn, như chợ, công trình cấp nước sạch cho cụm