Những Hạn Chế Và Nguyên Nhân Của Những Hạn Chế


khác nhau của đời sống xã hội. Văn kiện của Đảng NDCM Lào lần thứ IX đã khái quát những thành tựu trong việc xây dựng nhà nước CHDCND Lào của Đại hội Đảng VIII là:

Hệ thống chính trị của đất nước đã thể hiện sự ổn định vững chắc, điều này có được dựa trên thực tế rằng đảng đã định hướng hoàn thiện hệ thống chính trị ở cấp cơ sở cùng với việc củng có chính quyền nhà nước trung ương trong nỗ lực hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền.

Quốc hội đã thực hiện vai trò của cơ quan lập pháp và hoạt động với tính cách là cơ quan đại diện cho quyền lực và lợi ích hợp pháp của người nhân dân các bộ tộc Lào thông qua việc cải thiện một cách phù hợp hệ thống tổ chức và phương thức hoạt động của mình, đảm bảo rằng cơ quan lập pháp và các đại biểu có được lòng tin của nhân dân.

Chính phù và các cơ quan hành chính địa phương đã thực hiện quản lý nhà nước và xã hội bằng pháp luật, giải quyết các quy trình công việc hành chính và dịch vụ công ngày càng có hiệu quả; Chính phủ đã phân chia các cấp quản lý và điều chỉnh sự phối hợp giữa các lĩnh vực ở cấp trung ương và địa phương.

Tòa án và Viện Kiểm sát nhân dân đã chủ động hoàn thiện tổ chức và hoạt động của mình, đẩy mạnh việc giám sát và xét xử các vụ án nhanh hơn, khán quan, chính xác và công bằng.

Mật trận Tổ quốc Lào đã thực hiện công việc trong thời đại mới theo hình thức chủ động có thể tập hợp tình đoàn kết và xây dựng sự thống nhất trong toàn thể nhân dân Lào… [104, tr.15].

Những thành tựu đạt được trong đổi mới nhà nước đã có những tác động tích cực tới đời sống xã hội, đưa đất nước từng bước vượt qua khó khăn thử thách để giành được những thành tựu to lớn. Giai đoạn thập niên 90 của thế kỷ XX là một giai đoạn khó khăn đối với nước CHDCND Lào và các nước xã hội chủ nghĩa. Mặc dù chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu khủng hoảng và sụp đổ hàng loạt nhưng nước CHDCND Lào vẫn vững vàng và tiếp tục phát triển theo con đường mà nhân dân Lào, Đảng NDCM Lào và Chủ tịch Kay-són PHÔM-VI- HÁN đã lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Như vậy, sự nghiệp đổi


mới, tiếp tục phát triển của CHDCND Lào đã vượt qua nhiều thử thách, nâng cao vị thế của Lào trong khu vực cũng như trên thế giới, nâng cao đời sống cho nhân dân.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 180 trang tài liệu này.

3.2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế

Bên cạnh những thành tựu to lớn và quan trọng, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của nước CHDCND Lào theo hướng xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân cũng còn nhiều hạn chế và khuyết điểm cần khắc phục:

Xây dựng nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân - 16

- Hệ thống pháp luật còn chưa được xây dựng một cách đầy đủ, đồng bộ và nhất quán.

- Đối với Quốc hội là cơ quan lập pháp, đội ngũ đại biểu Quốc hội chuyên trách còn ít, phần lớn là cán bộ kiêm nhiệm.

- Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước còn nặng nề, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ về quản lý của cán bộ còn nhiều hạn chế.

- Vai trò của các cơ quan tư pháp trong bảo vệ pháp luật, quyền và lợi ích của công dân cũng còn hạn chế, vẫn còn những hiện tượng gây bức xúc trong xã hội.

- Phương thức hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước theo nguyên tắc thống nhất có sự phân công phối hợp còn chưa được nhận thức một cách thấu đáo hoặc chỉ mang tính hình thức, sự vận dụng cũng chưa có hiệu quả làm cho tính độc lập của từng cơ quan chưa cao. Sự phối hợp không chặt chẽ và do đó chưa tạo ra được những biến đổi mang tính đột phá cho xã hội.

Tình trạng quan liêu và tham nhũng của các cán bộ nhà nước và các cơ quan nhà nước ở nước CHDCND Lào còn là nguy cơ và thách thức lớn. Nó ảnh hưởng không nhỏ đến việc đầu tư xây dựng tốc độ phát triển kinh tế, gây ra những rối ren kinh tế và bất ổn về chính trị. Nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công chưa ngăn chặn được. Tiêu cực trong bộ máy nhà nước nghiêm trọng, kéo dài, nhất là các lĩnh vực nhà đất, xây dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, thuế xuất nhập khẩu và cả ở nhiều cơ quan thi hành pháp luật. Nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước Lào cũng như dư luận nhân dân nói chung đã coi tình trạng tham nhũng là một quốc nạn cần kiên quyết khắc phục. Khi đề cập đến những thách thức lớn mà nước Lào phải đối mặt hiện nay, Đảng NDCM Lào lần thứ IX chỉ rõ: “Tất cả các cơ quan và cán bộ cần xây dựng đạo đức công vụ mạnh mẽ, dấn thân vì lợi ích nhà nước và nhân dân và cung cấp dịch vụ một cách trung thực, nhiệt tình và nhanh chóng, tránh lạm dụng vị trí của mình để nhũng nhiễu người khác và tham nhũng”


[104, tr.37]. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước còn có tình trạng vừa buông lòng vừa bao biện, làm thay. Do đó, chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng; hiệu lực điều hành của bộ máy nhà nước không cao…

Đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước vừa thừa, vừa yếu, vừa thiếu, thừa số lượng như lại thiếu những người có chuyên môn cao và thạo việc. Biên chế cán bộ nhà nước và cán bộ thuộc khối cơ quan đoàn thể rất đông như năng suất lao động thấp; một bộ phận không nhỏ có trình độ và năng lực không đáp ứng được yêu cầu công việc trong giai đoạn cách mạng mới. Có thể nói, nước CHDCND Lào đã chiến thắng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, như khi chuyển sang cơ chế mới không ít cán bộ, công chức nhà nước đã bị ngã gục trước sự cám dỗ của đồng tiền bất chính. Tệ quan liêu, tham nhũng và suy thoái về phẩm chất đạo đức của một số cán bộ, đảng viên làm cho bộ máy đảng và nhà nước suy yếu, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đối với chế độ bị xói mòn, chủ trương và chính sách của Đảng, Nhà nước, Nhà nước bị thi hành sai lệch có thể dẫn tới chệch hướng.

Nguyên nhân của những hạn chế

Một là, chưa nhận thức đầy đủ và sâu sắc về tính tất yếu của việc xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân

Trong quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân, luôn tồn tại những quan niệm đã lỗi thời, xem Nhà nước pháp quyền chỉ thuộc về nhà nước tư sản nên đã không nghiên cứu Nhà nước pháp quyền tư sản một cách thực sự khách quan, khoa học, tạo nên thái độ chần chừ, do dự, thiếu kiên quyết trong việc tìm tòi các phương thức để xây dựng Nhà nước pháp quyền. Nhận thức không đúng về Nhà nước pháp quyền, cho rằng Nhà nước pháp quyền là thuộc về chủ nghĩa tư bản, còn chủ nghĩa xã hội phải thực hiện bằng việc quản lý xã hội bằng yếu tố tự giác, bằng giáo dục tinh thần cách mạng, ý thức trách nhiệm mà không cần pháp luật hoặc nếu có cũng chỉ là thứ yếu đã tạo ra lực cản đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Đây là một lý do căn bản làm cho ý thức pháp luật và thực thi pháp luật, xây dựng chính quyền của nhân dân còn rất hạn chế, hiệu quả thực thi pháp luật thấp, uy tín của chính quyền, nhất là chính quyền cấp cơ sở chưa cao, thậm chí có nơi, có lúc trật tự kỷ cương phép nước bị coi thường. Điều đó cũng làm cho bản thân cán bộ của Đảng và Nhà nước chưa thực sự tôn trọng pháp luật. Còn có hiện tượng một số cá nhân và cơ quan đặt mình lên trên pháp luật, vận


dụng pháp luật một cách tùy tiện, thiếu nghiêm túc, làm tăng thêm tư tưởng coi thường pháp luật của nhân dân.

Hai là, chưa xác định rõ mô hình NNPQ CHDCND Lào

Cho đến nay, nước CHDCND Lào vẫn chưa có được một mô hình Nhà nước pháp quyền một cách tương đối rõ ràng. Trong xã hội vẫn tồn tại quan niệm cho rằng đã là Nhà nước pháp quyền thì phải tam quyền phân lập, làm đúng như các nước tư bản đã làm, không có sự phân biệt cơ bản nào. Thực chất, đây cũng vẫn là tình trạng máy móc, rập khuôn, giáo điều. Tuy việc thừa nhận sự cần thiết phải xây dựng NNPQ CHDCND Lào đã được chính thức khẳng định từ Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ VIII nhưng cho đến nay, vẫn chưa hoàn toàn thống nhất về nội hàm của khái niệm Nhà nước pháp quyền và quy trình xây dựng nó. Trong vấn đề này có những quan điểm khác nhau, thậm chí là mâu thuẫn. Sự phủ định sạch trơn tổ chức của Nhà nước pháp quyền tư sản và việc không muốn kế thừa có chọn lọc những mô hình nhà nước có sẵn ở các nước tư bản phát triển vẫn là những cản trở đáng kể, làm cho xác định rõ mô hình NNPQ CHDCND Lào gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Việc xây dựng quy chế hoạt động của các cơ quan nhà nước còn nhiều bất cập, biểu hiện ở các mâu thuẫn và quan niệm cụ thể như:

Thứ nhất, đó là mâu thuẫn giữa một bên là quan điểm đồng nhất NNPQ CHDCND Lào với Nhà nước pháp quyền nói chung, mà thực chất là Nhà nước pháp quyền tư sản với một bên quan niệm cho rằng trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì không thể có Nhà nước pháp quyền, Nhà nước pháp quyền chỉ là sản phẩm riêng của xã hội tư bản chủ nghĩa. Từ quan niệm cho rằng nhà nước tư sản là quyền lực chính trị của gia cấp tư sản nên tất cả các cách thức tổ chức và phương thức hoạt động của nó đều mang tính chất tư sản, do đó, gần như toàn bộ những nhân tố hợp lý của nhà nước tư sản đều bị bỏ qua, đặc biệt là cơ cấu tổ chức hợp lý và phương thức tổ chức hoạt động có hiệu quả của nhà nước này.

Thứ hai, quan điểm cho rằng ở CHDCND Lào, Đảng NDCM Lào là đảng cầm quyền, lãnh đạo xã hội và nhà nước Lào một cách tuyệt đối, toàn diện sẽ mâu thuẫn với nguyên tắc cơ bản nhất của Nhà nước pháp quyền, bởi vì trong Nhà nước pháp quyền, pháp luật phải được coi trọng là tối thượng. Mâu thuẫn này thực ra là do trong nhận thức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên còn chưa có sự thống nhất, thậm chí còn không hiểu rõ về bản chất, đặc trưng và những nguyên tắc


cơ bản của Nhà nước pháp quyền, về quan hệ giữa vai trò lãnh đạo của Đảng với yêu cầu của NNPQ CHDCND Lào. Do đó, đã đối lập vai trò lãnh đạo của Đảng với NNPQ CHDCND Lào và cho rằng, chủ trương xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân sẽ hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, đặt Đảng bên dưới pháp luật.

Thứ ba, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, do tuyệt đối hóa vai trò dẫn đường của chính trị nên đã có tình trạng không quan tâm phát triển kinh tế, bất chấp sự phát triển kinh tế ra sao cũng được, chỉ chăm chú, quan tâm nhiều việc xây dựng hệ thống chính trị theo mẫu hình chủ nghĩa xã hội đã có sẵn của Liên Xô mà không tính đến thực trạng của nền kinh tế, do đó sinh ra tâm lý nôn nóng, chủ quan, duy ý chí trong việc xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân. Từ đây đã dẫn đến mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển kinh tế với việc thiết kế, tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước không phù hợp với yêu cầu ấy.

Thứ tư, mâu thuẫn giữa nhận thức về bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa với quá trình xây dựng nền dân chủ này. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ ở trình độ cao, được xây dựng trên cơ sở của một nền kinh tế phát triển cao. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù. Đó là quan điểm đúng, nhưng dân chủ có nhiều trình độ. Trình độ dân chủ không chỉ phụ thuộc vào bản chất của nhà nước mà còn phụ thuộc vào trình độ dân trí. Dân trí còn ở trình độ thấp mà thực hiện dân chủ một cách giản đơn, dân chủ trực tiếp, thì càng không có kỷ cương. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà V.I. Lê nin nhấn mạnh nguyên tắc tập trung dân chủ. Xa rời nguyên tắc này, nhà nước dễ bị vô hiệu hóa, bất lực và điều đó càng dễ xảy ra phản ứng ngược lại tạo thành tình trạng quan liêu. Cố nhiên, tập trung quan liêu là hiện tượng phức tạp, không chỉ là kết quả của sự phản ứng này, nhưng sự phản ứng đó cũng trở thành một tác nhân cho tư tưởng quan liêu, mệnh lệnh tồn tại và phát triển.

Ba là, chưa cụ thể hóa được cơ chế Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ một cách hợp lý và khoa học

Ở nước CHDCND Lào đã có, đã rõ về mặt Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Điều này vừa thể hiện rõ bản chất giai cấp công nhân của nhà nước vừa làm rõ đặc điểm của dân, do dân và vì dân của nhà nước.Tuy nhiên, cơ


chế này ở nhiều nơi, nhiều chỗ mới chỉ dừng lại ở mức độ như là một khẩu hiệu. Thực chất đây là vấn đề khó nhất và quan trọng nhất đối với toàn bộ việc xây dựng, tổ chức và hoạt động của NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân. Bởi vì Lào thực hiện phát triển theo kiểu “rút ngắn”, làm cho quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền không theo con đường thông thường mà lại chủ yếu dựa vào vai trò tích cực của chủ thể lãnh đạo, dẫn dắt của Đảng NDCM Lào, phù hợp với việc rút ngắn đó, cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ chắc chắn có những nội dung mang tính đặc thù tương ứng. Do chưa cụ thể hóa được cơ chế này một cách hợp lý và khoa học nên có hiện tượng trái ngược xảy ra. Thứ nhất, Đảng vừa bao biện, làm thay chức năng nhà nước này, vừa buông lỏng lãnh đạo, kiểm tra hoạt động của các cơ quan nhà nước. Chính điều đó đã góp phần tạo nên cách suy nghĩ, thói quen và phương pháp làm việc cực kỳ bảo thủ, tập trung quan liêu, hành chính mệnh lệnh. Thứ hai, một số cơ quan nhà nước không chịu sự kiểm soát của Đảng, hoặc cố tìm cách hạn chế vai trò lãnh đạo của Đảng, tạo nên mâu thuẫn giữa cơ quan Đảng và cơ quan nhà nước, vừa làm suy yếu hệ thống chính trị, vừa tạo kẽ hở cho địch có khả năng nhảy vào chống phá. Điều đó làm cho vai trò làm chủ của nhân dân không được xác định một cách rõ ràng dẫn đến hai xu hướng nguy hại đó là: Nhà nước vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, trở thành lực lượng độc đoán chuyên quyền, gây áp chế và mất dân chủ - hiện tượng quan cách mạng… ở nông thôn rất phổ biến. Mặt khác, gây nên tình trạng nhân dân phản đối và phản ứng với các cán bộ nhà nước tạo nên tình trạng dân chủ cực đoan, không tôn trọng kỷ cương phép nước, gây rối loạn trật tự an toàn xã hội…đây là hai vấn đề có liên quan chặt chẽ với nhau.

Cho đến nay, vấn đề phân định rõ chức năng nhiệm vụ để có thể xử lý một cách hiệu quả mối quan hệ Đảng và Nhà nước, khắc phục tình trạng chồng chéo chức năng hoặc buông lỏng quản lý giữa Đảng với Nhà nước vẫn là vấn đề thời sự cần nghiên cứu để làm sáng tỏ thêm. Thực tế cho thấy, có nhiều bất cập và mâu thuẫn nảy sinh. Đó là sự kém hiệu quả trong công tác lãnh đạo của Đảng, sự lúng túng và thụ động trong việc điều hành và quản lý xã hội của Nhà nước. Ngoài ra còn có ý kiến cho rằng xã hội luôn có sự nhất trí cao độ về chính trị nên không tồn tại sự khác biệt đáng kể nào giữa sự lãnh đạo của đảng và sự quản lý của nhà nước


và quyền làm chủ của nhân dân. Điều này dẫn đến sự phân định chức năng, nhiệm vụ không rõ ràng. Việc giải quyết các công việc cụ thể vừa có chỗ bị chồng chéo, vừa có chỗ bị bỏ qua.

Bốn là, thiếu kiên quyết trong công tác đổi mới về tổ chức và xây dựng nhà nước, nhất là cải cách hành chính nhà nước.

Mặc dù bộ máy hành chính rất cồng kềnh, nhiều tầng nấc, kém hiệu quả, tham nhũng nhưng Nhà nước chưa có nhiều giải pháp tích cực để đổi mới. Chẳng hạn, đổi mới Quốc hội đã có nhưng chưa nhiều, vị trí và cơ cấu Quốc hội không rõ, tính đại diện trong cơ cấu Quốc hội chưa được bảo đảm, tính chuyên nghiệp của đại biểu Quốc hội chưa được xác định một cách rõ ràng. Phương thức hoạt động của Quốc hội chưa thực sự có hiệu quả. Cải cách hành chính chưa mạnh và dứt điểm. Nói tinh giản biên chế nhưng mỗi lần giảm biên chế thì số lượng người trong các cơ quan nhà nước lại tăng lên, trong khi không tuyển chọn được những người thực sự có năng lực vào cơ quan nhà nước, nghiệp vụ hành chính trong cơ quan hành chính còn nhiều yếu kém.

Có thể nói, việc đổi mới bộ máy nhà nước còn chưa mạnh và thực chất là bởi tư duy cũ còn tồn tại khá nặng nề, thêm nữa, lợi ích của nhiều cán bộ, cả cán bộ trung, cao cấp gắn với chế độ cũ, khi đổi mới về động chạm đến lợi ích của khá nhiều cá nhân nên không có được sự nhất trí và đồng thuận thực sự. Điều này là nguyên nhân làm cho phương thức đổi mới không rõ ràng, nhất quán, chỉ đạo điều hành của cán bộ lãnh đạo thiếu kiên quyết. Việc tổng kết thực tiễn, trong đó có tổng kết về quá trình đổi mới, xây dựng, hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổng kết vai trò của nhà nước trong quá trình đổi mới, tổng kết những kinh nghiệm của thế giới về xây dựng nhà nước trong điều kiện hiện nay chưa làm tốt là nguyên nhân dẫn đến tình trạng những biện pháp đổi mới bộ máy nhà nước có tầm chiến lược, chưa thực sự chủ động mà nhiều khi chỉ là kết quả trực tiếp của những điểm nóng do vấn đề bức xúc của cuộc sống đặt ra.

Năm là, hạn chế trong công tác tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ nhà nước

Trong nhiều kỳ Đại hội Đảng, công tác tổ chức luôn được nhấn mạnh, thậm chí yếu kém của công tác tổ chức còn được xem là nguyên nhân của mọi nguyên


nhân. Trong việc xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân, việc xác lập một hệ thống tổ chức nhà nước hợp lý với đội ngũ cán bộ, công chức thành thạo công tác có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong khi đó, đa số cán bộ làm công tác quản lý và tổ chức và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước lại không được đào tạo một cách khoa học và có hệ thống. Phần lớn là các cán bộ đảng, chính quyền, đoàn thể có chuyên môn rất khác nhau. Kiến thức để làm công tác tổ chức và quản lý nhà nước chủ yếu chỉ là tri thức mang tính kinh nghiệm, thậm chí ở nhiều người những tri thức như vậy cũng không có. Nhiều người được phân công làm công tác tổ chức chỉ vì hiền lành, chất phác… đấy là chưa kể còn có các lý do tiêu cực khác. Điều này đã dẫn đến đội ngũ cán bộ tổ chức nhà nước thiếu một tầm nhìn chiến lược, hạn chế rất nhiều trong việc soạn thảo các văn bản pháp quy, trong việc thực thi pháp luật. trong bố trí nhân sự, công việc nhiều khi tùy tiện, lúc thì nhấn mạnh khả năng, lúc thì nhấn mạnh bằng cấp, lúc thì nhấn mạnh tuổi tác mà không coi trọng hiệu qủa thực tế của công việc cũng như không đánh giá được hiệu quả đó. Đặc biệt tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy việc đã trở thành một hiện tượng phổ biến. Hiện tượng “đặt giá” cho từng chức vụ từ thấp đến cao cũng không phải là không có. Những hạn chế đó đã tạo ra một hệ thống bao gồm một bộ phận đáng kể cán bộ nhà nước chỉ thấy quyền mà không thấy nghĩa vụ, chỉ thấy lợi mà không thấy trách nhiệm của mình, không phấn đấu về chuyên môn, không lo về trách nhiệm. Chủ nghĩa cơ hội nổi lên trong một bộ phận cán bộ, nhất là cán bộ trẻ. Tâm lý “mạnh ai nấy được” phát triển mạnh như một căn bệnh lây truyền nhanh và khó kiểm soát. Đây là nguyên nhân sâu xa nhất gây ra sự yếu kém của các cán bộ nhà nước, các cơ quan nhà nước ở nước CHDCND Lào.

Tóm lại, tiến trình xây dựng nhà nước kiểu mới của nước CHDCND Lào diễn ra qua nhiều giai đoạn lịch sử. Mỗi giai đoạn có những nét đặc thù về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội. Do những điều kiện ấy mà tổ chức, hoạt động và việc xây dựng nhà nước cũng có những biến đổi cho phù hợp, đó là cái lịch sử, còn cái logic xuyên suốt tiến trình là sự vận dụng quan điểm C. Mác - Lênin về nhà nước và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong tiến trình ấy, vai trò của định hướng của lý luận Mác - Lênin luôn gắn kết thành một thể thống nhất với tư tưởng của chủ tịch Kay-són PHÔM-VI-HÁN đặc biệt là tổ chức xây dựng nhà nước với tư cách là cơ quan công

Xem tất cả 180 trang.

Ngày đăng: 13/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí