Đặc điểm của quyền tác giả:
Quyền tác giả là một loại quyền đặc biệt dotính chất đặc biệt của tài sản - tài sản vô hình.Quyền tác giả có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất: quyền tác giả thiên về việc bảo hộ hình thức thể hiện tác phẩm.
Pháp luật về quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức chứa đựng tác phẩm khi nó được tạo ra và thể hiện dưới hình thức nhất định mà không bảo hộ nội dung sáng tạo tác phẩm. Quyền tác giả đối với tác phẩm chỉ được giới hạn trong phạm vi thể hiện cụ thể của tác phẩm mà không bao gồm ý tưởng của tác giả thể hiện trong tác phẩm. Những ý tưởng, cách sắp xếp, trình bày đã có trong suy nghĩ của tác giả nhưng chưa được thể hiện ra bên ngoài bằng hình thức nhất định thì không có căn cứ để công nhận và bảo hộ.
Pháp luật về quyền tác giả không quy định điều kiện về nội dung đối với tác phẩm được bảo hộ. Trong khi đó, quyền sở hữu công nghiệp bảo hộ nội dung của đối tượng, đối tượng sở hữu công nghiệp phải đáp ứng được các điều kiện nhất định.
Thứ hai:quyền tác giả phát sinh một cách tự động kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, phương tiện, ngôn ngữ. Việc bảo hộ này không phụ thuộc vào việc tác phẩm đã được công bố hay chưa công bố, đã được đăng ký hay chưa đăng ký. Việc đăng ký quyền tác giả không phải là căn cứ làm phát sinh quyền tác giả mà chỉ có giá trị pháp lý là chứng cứ chứng minh khi có tranh chấp.
Thứ ba: quyền tác giả bị giới hạn về không gian và thời gian.
Về không gian, bảo hộ quyền tác giả mang tính chất lãnh thổ, quyền tác giả chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ từng quốc gia. Điều này có nghĩa là sẽ chỉ bảo hộ quyền tác giả nếu nó đáp ứng các yêu cầu pháp lý của pháp luật quốc gia nơi yêu cầu bảo hộ. Quyền tác giả có thể được bảo hộ mở rộng ra bên ngoài lãnh thổ quốc gia thông qua các cam kết song phương và đa phương.
Về thời gian, tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được bảo hộ quyền tài sản trong một khoảng thời gian nhất định, sau thời gian đó tác phẩm thuộc về công
chúng. Khi đó công chúng được tự do sử dụng tác phẩm mà không phải xin phép và trả tiền bản quyền nữa. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả tùy thuộc pháp luật các quốc gia quy định. Thời hạn bảo hộ quyền nhân thân thường là vĩnh viễn. Còn thời hạn bảo hộ quyền tài sản được tính theo hai nguyên tắc. Nguyên tắc thứ nhất tính theo đời người, tức là thời hạn bảo hộ đối với tác phẩm là suốt cuộc đời tác giả và một số năm nhất định. Thông thường pháp luật các nước quy định thời hạn này là 50 năm. Tuy nhiên, xu hướng hiện nay của các nước Châu Âu là 70 năm. Còn pháp luật Việt Nam quy định thời hạn bảo hộ đối với loại hình này là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết. Nguyên tắc thứ hai là thời hạn bảo hộ sẽ là một số năm nhất định tính từ thời điểm công bố hoặc định hình. Pháp luật Việt Nam quy định thời hạn bảo hộ đối với một số loại hình tác phẩm như điện ảnh, mỹ thuật ứng dụng, nhiếp ảnh là 75 năm kể từ khi công bố, trong trường hợp tác phẩm chưa công bố trong vòng 25 năm kể từ khi định hình thì thời hạn bảo hộ là 100 năm kể từ khi định hình.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả tại Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch - 1
- Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả tại Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch - 2
- Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Quyền Tác Giả
- Vai Trò Của Quản Lý Nhà Nước Bằng Pháp Luật Về Quyền Tác Giả
- Hợp Tác Quốc Tế Trong Quản Lý, Thực Thi Bảo Hộ Quyền Tác Giả
Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.
Thứ tư: quyền tác giả là tài sản vô hình nên có thể khai thác, sử dụng trong cùng một thời gian bởi nhiều chủ thể khác nhau ở nhiều nơi.
Các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học là các sáng tạo trong các lĩnh vực đời sống tinh thần, với đặc tính vô hình, nên nó có thể được lan truyền rộng rãi, do đó rất khó cho việc kiểm soát việc khai thác, sử dụng. Vì vậy, khai thác quyền sử dụng là nội dung quan trọng nhất của quyền tác giả với đặc tính gắn liền với mục đích thương mại. Đặc biệt, ngày nay khi công nghệ kỹ thuật số phát triển, cùng với sự ra đời của internet, thì đây vừa là cơ hội khai thác thương mại các tác phẩm trong môi trường số, vừa là thách thức đặt ra cho việc bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số. Việc kiểm soát các hành vi sao chép, phân phối trên mạng, sử dụng tác phẩm không xin phép tác giả, chủ sở hữu gặp rất nhiều khó khăn. Để ngăn chặn, phát hiện và xử lý nhanh chóng các hành vi xâm phạm quyền tác giả, bên cạnh việc có đầy đủ hệ thống văn bản pháp luật với các chế tài đủ sức răn đe, đòi hỏi hệ thống các cơ quan quản lý và thực thi có đủ năng lực và hợp tác có hiệu quả để bảo hộ quyền tác giả.
1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả
Quản lý: là một khái niệm được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Theo từ điển Luật học, quản lý được hiểu là sự tác động của chủ thể lên đối tượng theo mục tiêu nhất định [53, tr.633]. Theo quan niệm của khoa học điều khiển, quản lý là: “điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được những mục đích đã định trước”[50, tr.7]. Như vậy, có thể hiểu quản lý là sự tác động có kế hoạch, có tính toán trước của người quản lý lên đối tượng được quản lý nhằm đạt được những mục đích đã được định trước. Quan niệm trên đây không những phù hợp với sự vận động của thiết bị tự động hóa, máy móc cơ giới mà còn đúng với cả tập thể người, tổ chức hay cơ quan nhà nước, và cũng phù hợp với quản lý xã hội. Khi xã hội càng phát triển thì nhu cầu quản lý xã hội càng tăng và nội dung quản lý theo đó càng trở nên phức tạp. Do đó để thực hiện hoạt động quản lý cần phải có tổ chức và quyền uy. Quyền uy là phương tiện quan trọng để chủ thể quản lý, điều khiển, chỉ đạo cũng như bắt buộc các đối tượng quản lý thực hiện yêu cầu, mệnh lệnh của mình.
Theo những quan niệm trên, chúng ta có thể hiểu quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng công cụ quản lý nhằm đạt được mục tiêu nhất định đã đề ra.
Quản lý nhà nước là một dạng của quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng pháp luật của nhà nước để điều chỉnh hành vi hoạt động của con người trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, do các cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Dựa trên khái niệm quản lý và sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước dựa trên cơ sở pháp luật để điều chỉnh các quy trình xã hội, các hoạt động của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các hành vi của các công dân và giữ gìn an ninh trật tự xã hội nhằm
thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và các mục tiêu khác mà nhà nước đã đề ra.
Quản lý nhà nước là sự tác động mang tính quyền lực nhà nước của chủ thể quản lý lên các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Việc tác động ở đây là sự tác động của các chủ thể được Nhà nước trao quyền, sự tác động đó phải bằng công cụ pháp luật lên các đối tượng chịu sự quản lý của nhà nước nhằm thực hiện một cách tốt nhất chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Trong quá trình thực hiện quản lý, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ quản lý khác nhau. Mỗi công cụ có vai trò, vị trí độc lập tương đối và được sử dụng phù hợp với hoàn cảnh, thời điểm nhất định của hoạt động quản lý. Tuy nhiên, với những đặc thù riêng của mình, pháp luật có khả năng triển khai trên quy mô rộng các chủ trương, chính sách của đảng cầm quyền và Nhà nước một cách có hệ thống, nhanh và hiệu quả nhất. Dựa trên cơ sở pháp luật, Nhà nước phát huy quyền lực, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các cơ quan, tổ chức và mọi công dân. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định nguyên tắc tổ chức, hoạt động, quyền hạn và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức, trên cơ sở đó Nhà nước thực hiện và nâng cao hiệu quả trong hoạt động quản lý của mình.
Như vậy, quản lý nhà nước bằng pháp luật là một phương thức quản lý của nhà nước, thông qua việc sử dụng công cụ pháp luật tác động vào các đối tượng quản lý để định hướng và điều chỉnh các hành vi xã hội nhằm đạt được mục tiêu quản lý của nhà nước.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả: Quản lý nhà nước bằng pháp luật được thực hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống. Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả là một dạng của quản lý nhà nước - là một phương thức mà bằng pháp luật, Nhà nước tác động vào đối tượng quản lý để định hướng cho hoạt động bảo hộ quyền tác giả vận động, phát triển mục tiêu nhất định. Mục tiêu nhất định ở đây là khuyến khích sáng tạo, tạo môi trường pháp lý an toàn cho các
nhà đầu tư, đồng thời bảo vệ, cân bằng lợi ích giữa các chủ thể quyền, người sử dụng và công chúng hưởng thụ.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả là hoạt động của Chính phủ, các Bộ, các Cơ quan ngang Bộ, Uỷ ban nhân dân các cấp và các cơ quan quản lý chuyên môn về quyền tác giả trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quyền tác giả, dựa trên cơ sở pháp luật để quản lý hoạt động bảo hộ quyền tác giả: xây dựng, chỉ đạo, thực hiện chiến lược, chính sách bảo hộ quyền tác giả, đồng thời thực hiện thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về quyền tác giả, cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan, tổ chức hoạt động thông tin, thống kê, giám định, hợp tác quốc tế về quyền tác giả, quản lý hoạt động của các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả.
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả là việc Nhà nước ban hành pháp luật và sử dụng pháp luật như một công cụ quản lý, tác động lên các hoạt động liên quan đến quyền tác giả theo những phương thức nhất định,nhằm đạt mục đích quan trọng của Nhà nước là bảo đảm được quyền lợi của chủ thể sáng tạo, khuyến khích hoạt động sáng tạo, đồng thờiđảm bảoquyền, lợi ích của người khai thác, sử dụng và công chúng hưởng thụ.
1.1.3. Đặc điểm quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả là quản lý thuộc lĩnh vực văn hóa - tư tưởng.
Với thuộc tính là hoạt động văn hóa - tư tưởng, hoạt động sản xuất kinh doanh, “công nghiệp quyền tác giả” chịu sự tác động đồng thời của hệ thống các quy luật phát triển văn hóa và hệ thống các quy luật kinh tế. Do tính chất phức tạp như vậy nên yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật được đặt ra bức thiết hơn. Quản lý nhà nước bằng pháp luật phải định hướng cho tự do sáng tạo, đồng thời cũng bảo vệ và ngăn chặn được những độc hại, tiêu cực do công nghiệp quyền tác giả gây ra đối với văn hóa, tư tưởng; phải định hướng cho công nghiệp quyền tác giả phát triển theo đúng quy luật kinh tế, ngăn ngừa những tác hại từ mặt trái của
cơ chế thị trường. Trong quản lý nhà nước bằng pháp luật, nếu chúng ta coi công nghiệp quyền tác giả là hoạt động kinh tế đơn thuần sẽ dẫn đến tình trạng thương mại hóa hoạt động này, chỉ chạy theo lợi nhuận kinh doanh; nếu chúng ta chỉ đề cao vai trò của công nghiệp quyền tác giả ở phương diện văn hóa, tư tưởng sẽ dẫn đến khả năng bất chấp quy luật kinh tế. Như vậy, hoạt động của công nghiệp quyền tác giả sẽ phá sản trong điều kiện kinh tế thị trường.
Có thể nói, quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả là quản lý hoạt động kinh tế trong văn hóa, tư tưởng, đồng thời quản lý hoạt động văn hóa, tư tưởng trong cơ chế thị trường. Đó là hai mặt của một vấn đề phải được quản lý hài hòa, đảm bảo cho công nghiệp quyền tác giả hoạt động đúng quy luật và phát triển đúng trật tự của pháp luật.
Thứ hai, quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả mang tính chuyên môn hóa, và nghề nghiệp cao.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả có nội dung phức tạp và đa dạng bởi đối tượng bảo hộ quyền tác giả là các tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học; hơn nữa trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, việc khai thác sử dụng tác phẩm trong môi trường số đặc biệt phát triển như hiện nay; đòi hỏi hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả phải có tinh chuyên môn hóa và nghề nghiệp cao. Các chủ thể quản lý phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng, không chỉ am hiểu pháp luật mà còn am hiểu các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học, công nghệ thông tin…Trong hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật, ngoài hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ, hoàn chỉnh, thống nhất, thì tiêu chuẩn về năng lực, chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức cũng là một trong những yếu tố hàng đầu để đảm bảo hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật có tính hiệu quả, linh hoạt.
Thứ ba, quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả gắn bó mật thiết với yêu cầu khách quan của quan hệ thương mại quốc tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong số các cam kết cần thực hiện ngay khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO có những cam kết về quyền sở hữu trí tuệ. Có thể khẳng định rằng vai trò của pháp luật về sở hữu trí tuệ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế là hết sức to lớn; không chỉ thống nhất, hoàn chỉnh, phù hợp nhu cầu thực tế trong nước mà còn phải phù hợp với pháp luật quốc tế và pháp luật khu vực. Các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ là nguồn luật quan trọng để điều chỉnh và nội luật hóa các quy định về sở hữu trí tuệ của mỗi quốc gia thành viên. Do các quy phạm pháp luật quốc tế không có hiệu lực trực tiếp đối với các thể nhân và pháp nhân trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, nên các quốc gia phải chuyển hóa nội dung của các cam kết đó vào pháp luật nước mình với mục đích thi hành pháp luật quốc tế. Pháp luật về sở hữu trí tuệ nói chung, pháp luật về quyền tác giả nói riêng cũng cần được sửa đổi, hoàn thiện để phù hợp với các điều ước, cam kết quốc tế tạo một sân chơi an toàn, bình đẳng, thúc đẩy các quan hệ thương mại trong nước và quan hệ thương mại với nước ngoài phát triển.
1.2. Các nội dung cơ bản của quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả
Về lĩnh vực quyền tác giả, nội dung hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật được quy định tại điều 5 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23/02/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả và quyền liên quan. Theo đó, hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả gồm các nhóm nội dung cơ bản sau đây:
1.2.1. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả, về quản lý nhà nước về quyền tác giả
Quản lý nhà nước về quyền tác giả đòi hỏi Nhà nước phải ban hành hệ thống các quy phạm pháp luật về quyền tác giả để điều chỉnh các quan hệ về quyền tác giả mà Nhà nước xác định cần có sự tác động điều chỉnh bằng pháp luật.
Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy định do Nhà nước ban hành, tạo thành một hệ thống thống nhất, bao gồm những văn bản luật và những văn bản
quản lý nhà nước (văn bản pháp quy dưới luật), các văn bản luật và các văn bản pháp quy đều chứa định các quy phạm pháp luật có tính chất bắt buộc chung đối với toàn xã hội hoặc một nhóm trong xã hội, và được thực hiện tương đối ổn định, lâu dài.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả, về quản lý nhà nước về quyền tác giả là kết quả của quá trình quan sát, nhận thức, đánh giá, nghiên cứu sự vận động, phát triển của các quan hệ về quyền tác giả, từ đó xây dựng các quy định pháp luật, các chế định quản lý phù hợp, tạo hành lang cho các quan hệ đó phát triển theo đúng định hướng, quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước.
Hoạt động xây dựng, ban hành văn bản pháp luật về quyền tác giả là một nội dung cơ bản của quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả, vì các văn bản pháp luật về quyền tác giả là cơ sở đầu tiên, là nền tảng quan trọng để quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả có hiệu quả.
Hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm phạm pháp luật về quyền tác giả phải thể chế hóa được các chủ trường, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, phải phủ hợp với thực tiễn, phản ánh được xu thế vận động của các quy luật khách quan, bảo đảm tính đồng bộ trong hệ thống quy định của pháp luật về quyền tác giả; quy định pháp luật phải cụ thể, ngôn ngữ diễn đạt rõ ràng, chính xác, đồng thời cũng phải bảo đảm tính tương đối ổn định; các quy định pháp luật phải kịp thời điều chỉnh những quan hệ xã hội mới phát sinh trong lĩnh vực quyền tác giả.
Đáp ứng yêu cầu tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả trong tình hình hiện nay, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, và đáp ứng được những thay đổi nhanh chóng về khoa học, công nghệ, đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống pháp luật về quyền tác giả, về quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả đầy đủ, hoàn thiện, đảm bảo tính hệ thống, nhất quán, phù hợp với điều ước quốc tế, có tính nghiêm khắc, có sức mạnh răn đe để bảo hộ quyền tác giả một cách hiệu quả.