Xây dựng ngân hàng ngoại thương Việt Nam thành tập đoàn tài chính ngân hàng đa năng trong khu vực Châu Á - 2


Đề xuất các giải pháp để Ngân hàng Ngoại thương có thể phát triển thành tập đoàn tài chính ngân hàng đa năng trong khu vực châu Á.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:


Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung chủ yếu vào nghiên cứu mô hình tổ chức và nội dung hoạt động của một tập đoàn tài chính ngân hàng đa năng.

Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu thực trạng mô hình tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp để xây dựng Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thành tập đoàn tài chính Ngân hàng đa năng trong khu vực Châu Á đến năm 2015.

6. Phương pháp nghiên cứu:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.

Trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện, luận văn dựa trên cơ sở vận dụng phép duy vật biện chứng kết hợp với các phương pháp như:

Phương pháp phân tích. Phương pháp thống kê. Phương pháp tổng hợp. Phương pháp so sánh.

Xây dựng ngân hàng ngoại thương Việt Nam thành tập đoàn tài chính ngân hàng đa năng trong khu vực Châu Á - 2

Đồng thời dựa vào các lý luận, quan điểm kinh tế, tài chính và định hướng phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, xuất phát từ thực tiễn để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu.

7. Kết cấu của luận văn:

Ngoài phần mở đầu, kết luận và mục lục, kết cấu của luận văn được chia làm 3 chương.

Chương 1: Tổng quan về tập đoàn và tập đoàn tài chính ngân hàng đa năng.

Chương 2: Thực trạng về mô hình tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.

Chương 3: Các giải pháp xây dựng Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thành tập đoàn tài chính ngân hàng đa năng trong khu vực châu Á.


CHƯƯƠƠNG 1‌‌

TỔNG QUAN VỀTẬP ĐĐOÀN VÀ

TẬP ĐĐOÀN TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG ĐĐA NĂĂNG


1.1. KHÁI NIỆM VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÁC TẬP ĐOÀN TRÊN THẾ GIỚI


1.1.1. Tập đoàn và tập đoàn kinh tế:


1.1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của tập đoàn:


Khái niệm:

Cho đến nay chưa có định nghĩa hay khái niệm chính thức cũng như thống nhất về tập đoàn. Tuy nhiên, tập đoàn có thể được hiểu theo một cách chung nhất đó là tổ hợp hay liên minh của một số đơn vị thành viên hoạt động trong một hay nhiều nghành nghề khác nhau, tại một hay nhiều vùng, quốc gia hay lãnh thổ khác nhau. Trong các liên minh, tổ hợp này luôn tồn tại một đơn vị hạt nhân, có khả năng nắm quyền lãnh đạo cũng như chi phối hoạt động của các đơn vị thành viên khác vì một mục tiêu chung [3].

Tên gọi về tập đoàn nói chung, đã xuất hiện từ rất sớm khoảng nửa cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 phổ biến như: “Cartel”; “Association”... và gần đây là “Cheabol”; “Group”..., tất cả đều có chung một số nghĩa chính là liên minh, liên kết, nhóm…Tất cả những liên minh như thế, khi nghiên cứu và dịch ra tiếng Việt chúng ta thông thường gọi chung một danh từ đó là “Tập đoàn”.

Đặc trưng của tập đoàn:


Tập đoàn là một cấu trúc có quan hệ về chiến lược và chính sách chung. Không có tư cách pháp nhân chung cho một tập đoàn, mà mỗi đơn vị thành viên trong tập đoàn phải là một pháp nhân độc lập. Không có cơ quan hành chính thường trực của tập đoàn, tuy nhiên đã là một tập đoàn nhất thiết phải có các bộ phận mang tính quản trị chung của tập đoàn như : Hội đồng quản trị, Ban hoặc là Uỷ ban kiểm tra


kiểm toán, Hội đồng chiến lược…Trong mỗi một tập đoàn luôn luôn tồn tại một đơn vị đứng đầu có thể gọi là “Đơn vị sáng lập”, “Đơn vị gốc” hoặc là “Đơn vị chi phối”…Vị thế của đơn vị này được thể hiện bằng biểu tượng của tập đoàn và khả năng chi phối, lãnh đạo định hướng phát triển của các đơn vị thành viên khác trong tập đoàn. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là đơn vị đứng đầu thâu tóm hết các hoạt động của các đơn vị thành viên, mỗi đơn vị thành viên lại có sở hữu tài sản riêng, trụ sở riêng, địa bàn riêng và thậm trí là cả nghành nghề riêng. Cơ chế điều hành chung của các tập đoàn dựa trên quan hệ về lợi ích chung, về uy tín cũng như các cam kết chung của tập đoàn. Vì lợi ích chung các đơn vị trong một tập đoàn luôn hành động theo cùng chiến lược, mục tiêu chung, theo lĩnh vực và địa bàn đã được phân bổ hoặc phát triển các quan hệ gắn bó về vốn, công nghệ, văn hoá, ngoại giao…Với những quan hệ gắn bó như thế các đơn vị thành viên trong tập đoàn luôn có chung quyền được bảo vệ để có thể tránh khỏi những nguy cơ bị thôn tính hay chèn ép của các đơn vị ngoài tập đoàn cũng như từ các tập đoàn khác.


1.1.1.2. Tập đoàn kinh tế:


Khái niệm:

Về cơ bản, cũng chưa có định nghĩa chính thức về tập đoàn kinh tế, tuy nhiên có thể hiểu rằng: Tập đoàn kinh tế là một hình thức tổ chức liên kết kinh tế. Các tập đoàn kinh tế là tổ hợp các công ty hoạt động trong một ngành hay những ngành khác nhau trong phạm vi một nước hay nhiều nước, trong đó có một công ty nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của các công ty con về mặt tài chính và chiến lược phát triển [3].

Tập đoàn kinh tế thường là các tập đoàn xuyên vùng gồm nhiều hình thức sở hữu, đa chức năng như sản xuất, thương mại, nghiên cứu khoa học, tài chính, vận tải, du lịch, bảo hiểm…Tập đoàn kinh tế theo mô hình “Mẹ - con” thường có quy mô rất lớn về vốn, lao động, thị trường với phạm vi hoạt động rộng về mặt địa lý, ngành nghề, lĩnh vực hoạt động, có kết cấu tổ chức nhiều cấp, trong đó các đơn vị thành


viên của tập đoàn đều là thực thể kinh tế có tư cách pháp nhân, tự chủ kinh doanh, hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm đối với kết quả kinh doanh.

Nói chung không có khuôn mẫu chung cho tất cả các tập đoàn kinh tế. Tuy nhiên thông thường, đối với mô hình tập đoàn kinh tế theo dạng Công ty mẹ – công ty con là các công ty độc lập về mặt pháp lý. Công ty mẹ thường là các công ty cổ phần nắm quyền chi phối trong các công ty con. Công ty mẹ là chủ sở hữu tài sản của chính công ty đồng thời sở hữu các tài sản là vốn góp cho các công ty con, công ty mẹ cũng là nơi ra các quyết định về chiến lược cũng như các chính sách kinh doanh chung của tập đoàn.

Đặc điểm của tập đoàn kinh tế:

Sự ra đời của tập đoàn kinh tế là một đòi hỏi tất yếu của thị trường. Hơn nữa, việc xuất hiện của một tập đoàn kinh tế không chỉ dựa trên nguyên tắc tự nguyện, mà còn là đòi hỏi khách quan trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và thường mang các đặc điểm chung như sau:

Tập đoàn kinh tế gồm nhiều đơn vị thành viên thuộc một hay nhiều lĩnh vực khác nhau như sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tài chính... thường là có quy mô rất lớn về vốn, nhân công, thị trường, doanh thu... Mô hình chủ yếu của các tập đoàn kinh tế là mô hình công ty mẹ - công ty con. Phạm vi hoạt động của tập đoàn thường rất rộng, vượt qua biên giới của một quốc gia, thậm chí nhiều tập đoàn có phạm vi hoạt động toàn cầu trở thành các tập đoàn xuyên – đa quốc gia. Mục tiêu của các tập đoàn là toàn cầu hoá chiến lược kinh doanh nhằm đạt được những lợi thế trong cạnh tranh và đạt được lợi nhuận cao nhất.

Hình thức sở hữu trong tập đoàn kinh tế là sở hữu hỗn hợp, nhưng Công ty mẹ luôn đóng vai trò chi phối, khống chế các công ty thành viên. Công ty mẹ sở hữu số lượng lớn cổ phần trong các công ty con, nắm quyền chi phối các công ty con về mặt tài chính cũng như về chiến lược phát triển. Các công ty con có thể hạch toán trực thuộc Công ty mẹ hoặc có thể hạch toán độc lập với tư cách pháp nhân riêng.


Các công ty con trong một tập đoàn có thể là những mắt xích liên quan đến nhau theo hình thức chuyên môn hoá trong một dây chuyền hoặc hoạt động hoàn toàn độc lập không có liên quan đến nhau. Do đó, sự liên kết của các công ty thành viên về các mặt như tài chính, công nghệ, thị trường...cũng rất đa dạng, có thể là hết sức chặt chẽ hoặc không chặt chẽ nhưng đều trên cơ sở cùng có lợi cho từng thành viên và của chung tập đoàn.

Các tập đoàn kinh tế thường hoạt động và quản lý tập trung một số mặt như huy động nguồn lực, điều tiết, quản lý vốn, đào tạo, nghiên cứu triển khai, xây dựng các chiến lược từ tổng thể đến chi tiết.

Tập đoàn kinh tế có thể kinh doanh chuyên ngành hoặc đa ngành. Ngày nay thì các tập đoàn kinh tế phát triển theo xu hướng hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực là phổ biến nhưng luôn có một ngành, một lĩnh vực giữ vị trí mũi nhọn. Bên cạnh các đơn vị sản xuất là các tổ chức tài chính, ngân hàng, thương mại, dịch vụ, nghiên cứu... Các tổ chức tài chính, ngân hàng và nghiên cứu ứng dụng ngày càng được chú ý hơn vì đó là đòn bẩy cho sự phát triển của tập đoàn.

Trong xu thế toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn thì các tập đoàn kinh tế tăng cường hoạt động thôn tính, sáp nhập, liên minh rộng rãi và địa phương hoá sản xuất, kinh doanh.

Nguyên tắc hoạt động:

Nguyên tắc chung của các tập đoàn kinh tế đó là tối đa hoá lợi nhuận. Công ty mẹ nắm giữ cổ phần chi phối trong các công ty con nhằm mục tiêu chính là tạo ra lợi nhuận. Số lượng cổ phần này sẽ có ảnh hưởng tới các quyết định quan trọng của các công ty con như bán tài sản, cơ cấu lại, sáp nhập…thông qua các hoạt động đầu tư, kiểm soát tài chính, chiến lược phát triển, hình thức quản lý, cách thức tiếp thị.v.v. Đó là sự chi phối bằng quan hệ tài chính, bao gồm cả tài sản hữu hình và vô hình của công ty mẹ - ví dụ như là thương hiệu- đối với các công ty con.

Với cách chi phối như vậy thêm vào đó là sự phân chia thị trường một cách tách bạch giữa các công ty con và đôi khi có thêm các thoả thuận khác, Tập


đoàn sẽ tạo được sự ổn định trong toàn hệ thống, đồng thời hạn chế được sự cạnh tranh trong nội bộ của tập đoàn. Hơn nữa, điều đó sẽ giúp cho sự phối hợp chiến lược kinh doanh của các công ty trong tập đoàn được chặt chẽ hơn xét cả về chiều rộng và chiều sâu.

Ngoài phần vốn có tính chất chi phối của công ty mẹ đối với các công ty con thì quan hệ tài chính giữa công ty mẹ - con chủ yếu là quan hệ hỗ trợ tạo, điều kiện cho công ty con vay vốn từ nguồn vốn chung của tập đoàn và các công ty con khác đều được hưởng lãi suất từ khoản vay này tương ứng với tỷ lệ góp vốn trong tập đoàn. Nói chung, các tập đoàn luôn tồn tại một công ty tài chính chung của tập đoàn để thực hiện chức năng điều phối tài chính và tăng cường vai trò của công ty để chống lại khả năng bị tấn công thôn tính của tập đoàn.

Trong mô hình tập đoàn Công ty mẹ - công ty con, công ty mẹ không chỉ đóng vai trò tập trung mà còn có chức năng điều hoà nguồn vốn giữa các công ty con nhằm đạt được hiệu quả tối đa. Việc dịch chuyển vốn giữa công ty mẹ và công ty con và ngược lại cũng được tính lãi suất theo quy định của tập đoàn. Tuy nhiên, các công ty con lại hoàn toàn có quyền chủ động sử dụng vốn tự có của mình trong sản xuất - kinh doanh mà tập đoàn không có quyền can thiệp vào phần lợi nhuận thu được từ nguồn vốn này.

Việc tăng quy mô và sức mạnh của tập đoàn chủ yếu được thông qua việc tích luỹ vốn của cả tập đoàn. Ngoài ra, vai trò của hệ thống kiểm soát nội bộ ngày càng tỏ rõ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quỹ đạo hoạt động cho các công ty con và định hướng chung của cả tập đoàn.

Về phương thức quản lý:


Nói chung các tập đoàn kinh tế đều sử dụng chính sách quản lý phi tập trung. Hầu hết các tập đoàn kinh tế đều có Hội đồng quản trị để quản lý tập đoàn, kiểm soát về mặt tài chính, chính sách và chiến lược đầu tư. Các công ty con lại tự mình bầu ra Hội đồng quản trị và ban lãnh đạo riêng của mình để tự quản lý, điều hành các hoạt


động sản xuất kinh doanh và hoàn toàn tự chủ về kết quả kinh doanh nhưng vẫn không xa rời mục tiêu mà tập đoàn đề ra.


1.1.2. Quá trình hình thành các tập đoàn trên thế giới


Chúng ta có thể thấy rằng, vào cuối thế kỷ 19 đầu 20 duới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp và tiến bộ khoa học kỹ thuật ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ, lực lượng sản xuất đã phát triển một cách nhanh chóng. Những thành tựu khoa học kỹ thuật thời kỳ này, một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới đòi hỏi xí nghiệp, công ty phải có quy mô lớn; mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động, đi cùng với nó là quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, tăng khả năng tích luỹ tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn, từ đó hình thành các xí nghiệp, công ty có quy mô rất lớn.

Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích luỹ…ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.

Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô tích luỹ để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, canh tranh gay gắt làm cho các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát tài, làm giàu với số tư bản tập trung và quy mô xí nghiệp ngày càng to lớn.

Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa làm phá sản hàng loạt các xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng quá trình tích tụ và tập trung tư bản.

Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền và các tập đoàn lớn trên thế giới [1].

Trong giai đoạn hội nhập và giao lưu kinh tế cả về chiều rộng và chiều sâu, các tổ chức độc quyền và các công ty lớn chuyển sang các hoạt động mang tính quốc tế


cao. Các tổ chức này phát triển thành các công ty đa và xuyên quốc gia, hoạt động rộng trên phạm vi toàn cầu. Ban đầu các công ty này chỉ thực hiện việc bán và phân phối sản phẩn từ trong nước ra nước ngoài, dần dần tiến đến việc huy động và thực hiện tiến hành sản xuất và tiêu thụ tại chỗ nhờ giá nguyên liệu, nhân công...rẻ hơn ở trong nước. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các tổ chức và công ty lớn luôn gặp phải cạnh tranh gay gắt, một số tổ chức, công ty đã không giữ vững được và bị công ty khác thôn tính, một số khác thoả hiệp, liên minh tạo thành các tập đoàn lớn hơn để chiếm ưu thế trong cạnh tranh nhờ lợi thế về qui mô.‌


1.2. TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG ĐA NĂNG


1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và xu hướng của Tập đoàn tài chính - ngân hàng đa năng

1.2.1.1. Khái niệm tập đoàn Tài chính - ngân hàng và tập đoàn tài chính ngân hàng đa năng

Cho đến nay cũng chưa có định nghĩa hay khái niệm chính thức về tập đoàn tài chính – ngân hàng (TĐTC-NH). Tuy nhiên, về cơ bản TĐTC-NH mang đầy đủ các đặc trưng của một tập đoàn kinh tế nói chung, có khác đây là các tập đoàn hoạt động trong một lĩnh vực đặc biệt và rất nhạy cảm đó là lĩnh vực tài chính – ngân hàng.

Nói chung chúng ta có thể hiểu rằng: TĐTC-NH là một tổ chức bao gồm hai hay nhiều định chế tài chính - ngân hàng được liên kết lại với nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Đó là sự liên kết giữa nhiều chủ thể khác nhau hoạt động trên các lĩnh vực tài chính – ngân hàng nhằm hướng tới mục tiêu nhất định như mở rộng hoạt động kinh doanh, đầu tư và tăng khả năng cạnh tranh và mục tiêu cuối cùng là thu được lợi nhuận cao nhất [3].

Mặc dù không có khái niệm chính thức về TĐTC-NH hay TĐTC-NH đa năng tuy nhiên, về nguyên tắc một tập đoàn được coi là TĐTC-NH phải đáp ứng được những yêu cầu sau:

Xem tất cả 126 trang.

Ngày đăng: 18/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí