Xây dựng hệ thống bài tập nhận thức âm thanh hỗ trợ cho học sinh lớp 1 mắc chứng khó đọc - 2


khó đọc mà còn cả các khuyết tật học tập khác như ADD, ADHD. Phương pháp trị liệu âm thanh của Tomatis đã được áp dụng rộng rãi ở các nước Pháp, Mỹ, Đức, Ý, Canada với sự hỗ trợ đắc lực của một thiết bị tinh vi, đó là “tai điện tử”.

Những năm gần đây, ngày càng có nhiều trang web cung cấp các dịch vụ trị liệu âm thanh cho trẻ khó đọc. Có thể dễ dàng tìm thấy các trang như: www.apluslearningtexas.com/services.html,

www.tomatis.com/, www.tomatis.com.au/ www.superduperinc.com/products/view.aspx?pid=TPX30001#.UZILc7Vhh64

Khi trên thế giới đã và đang có rất nhiều những công trình nghiên cứu và chương trình trị liệu cho trẻ khó đọc bằng liệu pháp âm thanh thì trong nước, những nghiên cứu về vấn đề này còn đang bõ ngõ.

Tuy đã có một số nghiên cứu về chứng khó đọc như nghiên cứu của Bùi Thế Hợp (2012) tiến hành can thiệp trị liệu cho HS lớp 3 có khó khăn về đọc bằng phương pháp sử dụng vật liệu lời nói. Ở nghiên cứu này tác giả đã đề cập khá chi tiết đến các giả thuyết nguyên nhân khó khăn về đọc cũng như các cách tiếp cận, mô hình dạy học cho trẻ khó khăn về đọc trong đó có hướng tiếp cận âm. Tuy nhiên, Bùi Thế Hợp đã không theo hướng tiếp cận âm mà đi theo hướng tiếp cận nghĩa. Các tác giả Mai Thị Hương (2011) Đặng Ngọc Hân (2012) và Lê Thị Thuỳ Dương (2012) đã có những nghiên cứu thực nghiệm trên trẻ khó đọc về việc xây dựng các bài tập hỗ trợ trẻ khó đọc theo hướng nhận thức âm vị và đa giác quan có sự hỗ trợ của máy tính và các phần mềm tiện ích. Trong đó, ngiên cứu của tác giả Lê Thị Thùy Dươg về “Vận dụng phương pháp đa giác quan để can thiệp trị liệu cho học sinh lớp 1 mắc chứng khó đọc” có đề cập trực tiếp đến bài tập nhận thức âm thanh nhưng chỉ qua 2 trò chơi: Đi tìm âm thanh cho chữ cái và Vũ điệu của những dấu thanh. Số lượng trò chơi như vậy là quá ít và khó để đánh giá được tính hiệu quả của nó. Ngoài ra, một số nghiên cứu của Nguyễn Thị Ly Kha và Phạm Hải Lê cũng có xây dựng bài tập về nhận thức âm thanh, tuy nhiên, chỉ là một số bài tập song song với các bài tập khác như: tri nhận không gian, đọc hiểu,… mà chưa có sự phân tích riêng hệ thống bài tập này.


03. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài‌

Xây dựng và thử nghiệm các bài tập, trò chơi ngôn ngữ rèn luyện khả năng nhận thức âm thanh – biểu tượng tự vị cho học sinh lớp 1 mắc chứng khó đọc, nhằm hỗ trợ các em khắc phục khó khăn trong việc học đọc.

04. Nhiệm vụ nghiên cứu‌

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Nghiên cứu cơ sở lí luận về khả năng nhận thức âm thanh của học sinh lớp 1 và học sinh lớp 1 mắc chứng khó đọc.

Xây dựng các bài tập, trò chơi học tập rèn luyện khả năng nhận thức sự tương hợp chữ - âm cho học sinh lớp 1 mắc chứng khó đọc.

Xây dựng hệ thống bài tập nhận thức âm thanh hỗ trợ cho học sinh lớp 1 mắc chứng khó đọc - 2

Thử nghiệm hệ thống bài tập nhận thức âm thanh trên trẻ lớp 1 mắc chứng khó đọc với sự kết hợp sử dụng phương pháp đa giác quan trong dạy học trẻ khó đọc.

05. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu‌

Do thời gian nghiên cứu, điều kiện nghiên cứu có hạn nên đề tài được thực hiện giới hạn trong phạm vi nghiên cứu chứng khó đọc ở học sinh lớp 1, cụ thể ở 2 trường tiểu học: NTT, Quận 3 và trường PLA Quận 9.

Về đối tượng nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành trên 4 nhóm nghiên cứu, hai nhóm thực nghiệm gồm 5 học sinh và 2 nhóm đối chứng gồm 5 học sinh. Cụ thể: Trường TH NTT, nhóm thực nghiệm gồm 4 học sinh: T.T, P.U, K.H, A.P; nhóm đối chứng gồm 3 học sinh: V.A, G.K, T.Th. Trường TH PLA, chúng tôi chỉ tiến hành thực nghiệm học sinh M.H, với nhóm đối chứng gồm 2 học sinh: T.K và Đ.H. Tất cả các học sinh được chọn thực nghiệm cũng như học sinh đối chứng đều được chẩn đoán mắc chứng khó đọc.

06. Giả thuyết nghiên cứu‌

Thử nghiệm can thiệp trị liệu cho HS lớp 1 mắc chứng khó đọc qua việc sử dụng bài tập nhận thức âm thanh, chúng tôi xuất phát từ giả định: nhóm bài tập này cùng sự kết hợp với phương pháp đa giác quan và liệu pháp tâm lí sẽ cải thiện năng lực đọc - viết cho trẻ mắc chứng khó đọc ngay từ giai đoạn đầu học âm - vần.


07. Phương pháp nghiên cứu‌

Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, và đạt được mục tiêu nghiên cứu, nhóm thực hiện đề tài sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:

Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu các tài liệu để tìm hiểu về lí thuyết nhận thức âm thanh trong dạy học trẻ tiểu học, đặc biệt là cho trẻ mắc chứng khó đọc; về mối liên quan giữa các bài tập nhận thức âm thanh với việc học chữ cái, ghép vần và kỹ năng đọc lưu loát của học sinh.

Phương pháp sử dụng bảng hỏi, mẫu điều tra: phương pháp này được sử dụng để có hướng nhìn tổng quan về chứng khó đọc trong nhà trường tiểu học hiện nay; có những cứ liệu để đưa ra nhận định về hiểu biết của phụ huynh và giáo viên về chứng khó đọc cũng như những biện pháp, phương pháp dạy học mà giáo viên, phụ huynh áp dụng cho đối tượng này.

Phương pháp phỏng vấn trực tiếp: phỏng vấn giáo viên trực tiếp giảng dạy trẻ khó đọc và các chuyên gia về những trệu chứng của trẻ khó đọc, các liệu pháp đã được sử dụng và mức độ hiệu quả của các liệu pháp ấy. Mặt khác, xin ý kiến chuyên gia về các bài tập nhận thức âm thanh được xây dựng nhằm đảm bảo tốt nhất tính hiệu quả và thiết thực của hệ thống bài tập khi thực nghiệm.

Phương pháp xin ý kiến chuyên gia: phỏng vấn các chuyên gia là những nhà giáo dục ngôn ngữ, bác sĩ âm ngữ trị liệu để xin ý kiến về chẩn đoán HS mắc chứng khó đọc cũng như những biện pháp trị liệu phù hợp cho HS thực nghiệm.

Phương pháp hồi cứu: được sử dụng để “đi ngược thời gian”, tìm hiểu những vấn đề của trẻ trước khi được chẩn đoán mắc chứng khó đọc.

Phương pháp nghiên cứu trường hợp: đây là một phương pháp thuộc nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn, sẽ được sử dụng trong can thiệp trị liệu và sử dụng các kiểu bài tập để giúp người nghiên cứu có những bổ sung hiệu chỉnh kịp thời, thiết thực cho hệ thống các bài tập chỉnh âm được xây dựng

Phương pháp thực nghiệm là một phương pháp quan trọng trong đề tài. Các bài tập xây dựng sẽ được thực nghiệm trên nhóm trẻ khó đọc tại trường tiểu học NTT, quận 3 Tp HCM và trường tiểu học PLA, quận 9 Tp HCM. Đều đặn sau 3 đến 4 tuần


thực nghiệm, chúng tôi sẽ tiến hành kiểm tra học sinh nhằm có những dữ liệu để so sánh, đối chứng; đánh giá hiệu quả và điều chỉnh kịp thời những thiếu sót của hệ thống bài tập.

Nhóm các phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp các dữ liệu thu thập được sẽ cho phép nhóm nghiên cứu có những căn cứ để đánh giá mức độ thành công của hệ thống bài tập vận động và tri nhận không gian.

08. Bố cục của khóa luận‌

Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận - đề xuất, báo cáo này gồm ba chương. Một là, Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài; Hai là, Xây dựng bài tập, trò chơi về nhận thức âm thanh hỗ trợ trị liệu cho trẻ lớp 1 mắc chứng khó đọc; Ba là, Thực nghiệm hệ thống bài tập cho HS lớp 1 mắc chứng khó đọc.

Bên cạnh 56 trang chính văn, báo cáo còn có phụ lục gồm mẫu phiếu phỏng vấn giáo viên, phụ huynh về 44 triệu chứng của chứng khó đọc; mẫu phiếu khảo sát đọc - viết của học sinh; 14 bài tập - trò chơi cùng số lượng giáo án minh họa các hoạt động dạy học tương đương; Các giấy xác nhận của GVCN và BGH các trường trong quá trình thực nghiệm cùng một số phiếu khám sức khỏe của các học sinh trong nhóm đối chứng và thực nghiệm.


NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU‌

Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI‌

1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN‌


1.1.1. Đặc điểm ngôn ngữ, tâm sinh lí của học sinh lớp 1 mắc chứng khó đọc.‌

1.1.1.1. Đặc điểm tâm sinh lí

Về sinh lí, trẻ lớp 1 khó khăn về đọc thường có vẻ ngoài sáng sủa, phát âm rõ ràng, vì vậy, nếu chỉ quan sát không thể nhận ra trẻ mắc chứng khó đọc. Các em có vẻ phát triển bình thường về các cơ quan trên cơ thể cũng như kỹ năng giao tiếp trong gia đình và trường học. Tuy nhiên, một số học sinh có biểu hiện đau đầu, hoa mắt và thiếu tập trung khi học tập và làm việc. Ngoài ra, cũng có những trường hợp biểu hiện khó khăn khi thực hiện các vận động tinh và các trò chơi đồng đội.

Về tâm lí, theo Piaget, ở lứa tuổi Tiểu học, trí tuệ và ngôn ngữ trẻ phát triển ở giai đoạn tư duy thao tác cụ thể. Trong tư duy của trẻ tiểu học đã xuất hiện khả năng đảo ngược và ý niệm về nguyên tắc bảo toàn. Trên cơ sở khả năng và nguyên tắc này, HS phát triển những cơ cấu thao tác: phân loại, xếp loại và tính số. Các em biết phân tích những điểm giống nhau và khác nhau giữa các sự vật và phạm vi mở rộng của từng loại, thấy được mối liên quan giữa các sự vật. Tuy nhiên, về hình thức, sự phân tích, lĩnh hội tài liệu học tập ở lứa tuổi này chủ yếu diễn ra trên bình diện hành động – trực quan với những suy luận cụ thể.

Từ mẫu giáo lên lớp 1 là một bước ngoặt trong cuộc đời của trẻ. Nếu ở mẫu giáo, hoạt động chủ đạo là vui chơi, thì lứa tuổi học sinh tiểu học là hoạt động học tập. Quá trình chuyển đổi hoạt động chủ đạo sẽ gây cho trẻ rất nhiều khó khăn, đặc biệt là tâm lý. Họat động về mặt chủ đạo sẽ quyết định những nét tâm lý đặc trưng nhất của lứa tuổi học sinh tiểu học. Trẻ mắc chứng khó đọc không dễ dàng đạt được bước phát triển này. Theo hiệp hội Chứng khó đọc Úc (ADA), “chứng khó đọc xảy ra liên tục mà nhẹ nhàng và điều quan trọng là những người mắc chứng khó đọc không ai giống ai hoàn toàn”. Có thể trẻ đều được chẩn đoán mắc chứng khó đọc nhưng về biểu hiện thì không thống nhất hoàn toàn. Những việc mà các bạn không khó khăn để đạt được, đối


với trẻ khó đọc lại là những thử thách. Dần già, khi phát hiện ra sự khác biệt của mình với các bạn mà không sao lí giải được, trẻ sẽ che giấu các khuyết điểm của bản thân một cách khéo léo, rụt rè hơn hoặc trở nên quậy phá, trở thành học sinh cá biệt. Trẻ bị dán nhãn là lười học, hay mơ màng, dễ nản chí khi gặp khó khăn, thậm chí là đần độn. Từ đó, trẻ mất đi niềm tin vào bản thân và mất đi động lực cũng như ham muốn học tập. Chứng khó đọc ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tâm sinh lí của trẻ lớp 1. Vì vậy, việc phát hiện và điều trị sớm cho trẻ khó đọc là việc làm hết sức cần thiết nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của các em.

1.1.1.2. Đặc điểm ngôn ngữ

Chứng khó đọc được hiểu là những khó khăn với việc nhận dạng từ chính xác và đọc lưu loát cùng với khả năng chính tả và giải mã kém, chứng tật này rất khó nhận biết trước khi trẻ nhập học (Catts & Kahmi, 2005). Tuy nhiên, nó lại trở nên đáng chú ý khi trẻ bắt đầu học đọc. Trẻ gặp phải những khó khăn đặc biệt trong đọc lưu loát và kỹ năng giải mã âm. Điều này gây ra những trở ngại rất lớn cho trẻ trong việc đọc sách hoặc khả năng trở thành một người đọc độc lập.

Theo thang phát triển kỹ năng nhận thức âm vị của Muter (2003) dựa trên sự so sánh tuổi sinh học và tuổi đọc, trẻ đầu tuổi tiểu học (6 tuổi) đã có thể tạo tiếng, nhận biết sự bắt đầu và kết thúc âm vị, nối âm, phân đoạn âm vị, thêm âm vị, xóa âm vị, thay thế âm vị [1]. Đó là những kỹ năng nhận thức âm đầu tiên của trẻ. Tuy nhiên, trẻ khó đọc thường gặp khó khăn với những kỹ năng ấy. Trẻ gặp khó khăn trong việc đánh vần, đọc trơn, việc ghi nhớ bảng chữ cái, các quy tắc , thường hay nhầm lẫn các chữ cái có đường nét gần giống nhau. Những biểu hiện trên là do trẻ không nhận ra được sự tương xứng âm - chữ trong ngôn ngữ. Trẻ không nhận ra cấu trúc bên trong của từ ngữ, là mỗi âm tương ứng với một ký hiệu chữ (hoặc tập hợp con chữ) và mỗi từ gồm các âm được sắp xếp một cách có tổ chức.

Trong những tình huống thông thường, trẻ gặp khó khăn khi muốn diễn đạt ý của mình, trẻ thường đọc sai thứ tự, đổi đảo hoặc bỏ sót chữ. Theo Hiệp hội Quốc tế về chứng khó đọc, trong một số trường hợp, trẻ gặp các rối loạn về thị giác hoặc khó chịu khi đọc các văn bản in, cụ thể như: nhìn các chữ hoặc từ bị nhòe hoặc thấy chúng di chuyển gây hoa mắt, những từ hoặc chữ cái khi xuất hiện thường bị tách thành hai


chữ, khó khăn để theo dõi trình tự các chữ trên trang giấy, nhìn vào trong giấy thường thấy chói mắt hoặc nhạy cảm với ánh sáng chiếu vào trang giấy… Khi được yêu cầu đọc một câu văn hoặc một đoạn văn ngắn, trẻ thường ngắc ngứ hoặc đọc thiếu chính xác trong lúc đọc, trẻ khó phát hiện ra sự khác biệt khi câu văn hoặc đoạn văn có sự thay đổi nhỏ.

Những khó khăn của trẻ khó đọc không chỉ dừng lại ở kỹ năng đọc mà còn kỹ năng viết. Trẻ khó đọc thể hiện yếu kém trong quá trình viết chính tả do có vấn đề trong kỹ năng giải mã âm thanh - chữ viết. Trẻ thường viết sai thứ tự các chữ cái trong từ, viết thêm nét, bỏ nét hoặc bỏ sót âm cuối.

Hơn nữa, nếu chứng khó đọc không được điều trị sớm, sẽ dẫn đến hạn chế về vốn từ và ảnh hưởng đến việc học tập ở các môn học khác.

1.1.2. Quá trình nhận thức ngữ âm của học sinh lớp 1‌

Giao tiếp là hoạt động không thể thiếu của loài người, trong đó, ngôn ngữ là công cụ quan trọng bậc nhất. Nói đến ngôn ngữ thì trước hết phải nói đến ngôn ngữ thành tiếng – tức ngữ âm. Ngữ âm là mặt hình thức có tính vật chất (mặt biểu hiện). Ngữ âm là cách gọi tắt của âm thanh ngôn ngữ - một loại âm thanh đặc biệt do con người phát ra dùng để giao tiếp và tư duy. Ngữ âm bao gồm các âm, các thanh, các kết hợp âm thanh và giọng điệu trong một từ, một câu của một ngôn ngữ [21]

 Nhận thức ngữ âm đề cập đến nhận thức của một cá nhân về cấu trúc âm vị học, hoặc cấu trúc âm thanh của lời nói. Nhận thức về ngữ âm là một yếu tố dự báo quan trọng và đáng tin cậy về khả năng đọc sau này vì vậy đã trở thành trọng tâm của nhiều nghiên cứu. (http://en.wikipedia.org/wiki/Phonological_awareness). Nhận thức ngữ âm là khả năng nhận ra rằng từ được tạo thành từ nhiều đơn vị âm thanh. Thuật ngữ này bao gồm một số các kỹ năng liên quan đến âm thanh cần thiết cho một người để có thể phát triển thành môt người đọc độc lập. Một đứa trẻ phát triển nhận thức ngữ âm, không chỉ cần hiểu rằng từ được tạo thành từ các đơn vị âm thanh nhỏ hơn (âm vị), trẻ cũng cần biết rằng lời nói có thể được tách ra thành âm thanh nhỏ hơn được gọi là âm tiết và mỗi âm tiết bắt đầu bằng một âm thanh (âm đầu) và kết thúc với một âm thanh (âm cuối).


Để đọc một từ người học phải nhận ra các chữ cái trong từ và kết hợp mỗi ký tự với âm thanh của nó. Để viết hoặc gõ một từ người học phải phân tích từ thành những âm thanh thành phần của nó và biết các ký tự đại diện cho những âm thanh này. Kiến thức về sự tương ứng âm - chữ và kỹ năng nhận thức ngữ âm là nền tảng cơ bản của việc học chữ [19].

Trẻ khởi đầu quá trình nhận thức ngữ âm của mình từ rất sớm thông qua giao tiếp trong môi trường gia đình. Một đứa trẻ phát triển bình thường không quá khó khăn để đạt được những kỹ năng tiền đọc viết trong quá trình tiếp xúc, chơi đùa cùng những người thân. Khi đến tuổi mẫu giáo, trẻ được phát triển một số kỹ năng đọc – đặc biệt là khả năng thực hiện một cuộc đàm thoại ngắn, khả năng chú ý và cho phản hồi khi nghe kể chuyện; biết một số chữ cái và các âm mà chữ này thể hiện cũng như những quan niệm cơ bản về văn bản in [21].

Quá trình nhận thức ngữ âm của HS lớp 1 được đặc biệt chú ý trong giai đoạn Học vần. Dạy học vần còn được gọi là dạy đọc viết chữ, học vần là giai đoạn đầu tiên trong quá trình học đọc viết ở trường phổ thông. Khi mà học sinh bắt đầu chuyển những kỹ năng nói – nghe thành kỹ năng đọc – viết. Theo tác giả Hoàng Thị Tuyết (2012), học vần là một giai đoạn cực kỳ quan trọng ở chỗ hình thành kỹ năng giải mã và nhận diện từ, từ đó tạo nền tảng cho việc phát triển kỹ năng đọc và viết của học sinh tiểu học.

Trong giai đoạn này, học sinh được rèn các kỹ năng:

Kỹ năng xem xét, nhận diện các âm, vần tạo thành từ ngữ.

Kỹ năng phân tách một từ ngữ (tổ hợp chữ cái) thành các âm.

Ý thức ngữ âm.

Kỹ năng nhận diện sự tương hợp giữa âm thanh và chữ viết.

Kỹ năng đánh vần.

Kỹ năng đọc trơn.

Bài tập nhận thức âm thanh có nội dung yêu cầu rèn luyện khả năng nhận thức âm thanh - biểu tượng tự vị của trẻ, như cách phát âm các chữ in, trẻ phải nhận ra

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 17/09/2022