ý thơ mới lạ , hình ảnh thơ giàu sắc biểu cảm “lác đác” , “xao xác” , “vàng ươm” ,
“đươm
hương”, “nét cúc”, “lòng cúc”. Nhưng cả đoan
thơ vân
mang đâm
âm hưởng
thơ đời Tấn , thơ đời Đường , người đoc có cam̉ tưởng như sẽ có cả thời đaị đã qua
trong đó, hoa cúc chỉ đep
nhất khi đươc
ông Bành Trac̣ h chăm sóc . Hình ảnh nhà ẩn
Có thể bạn quan tâm!
- Thơ Đường Luật Trên Báo Chí Và Trong Phong Trào Thơ Mới
- Xác lập mã nghệ thuật thơ Đường luật của Quách Tấn - 10
- Xác lập mã nghệ thuật thơ Đường luật của Quách Tấn - 11
- Quê Hương Đấ T Nướ C: Những Nơi Chốn Đã Đi Qua
- Nhìn Thiên Nhiên Qua Cảm Quan Thiền Đạo
- Những Thể Thơ Được Quách Tấn Sử Dụng Trong Các Tập Thơ
Xem toàn bộ 173 trang tài liệu này.
sĩ hiền triết Bành Trạch xuất hiện ở cuối đoạn thơ đã thể hiện sự khéo léo trong
dụng ý của Quách Tấn . Nếu như hoa cúc của nhà hiền triết Đào Tiềm tươn
g trưng
cho sư ̣ ở ẩn , đam bac̣ , thanh nhaǹ thì ở Quach́ Tâń , dưới caí nhìn tinh tế , thi sĩ đa
làm mới hình ảnh hoa cúc , nhưng hơi thở Đường thi vân cánh hoa.
phâp
phồng trong từ ng
Trong tâp
thơ Mùa cổ điển thi nhân đã nói nhiều về hoa cúc:
- Môt
mai trăng chở thu về cú c,
Rèm cuốn sương hương tỏa lững lờ.
(Qua xuân)
- Vườ n sương thơ thẩn đêm qua lanh,
Cúc nở nhìn nhau miệng mỉm cười.
(Hiu quan
- Bên luống cú c già vầy baṇ
h) cũ,
Ra về sống á o đươm
mù i hương.
(Túp lều thơ)
Hình ảnh hoa cúc qua ba trích dẫn trên mang ba sắc thái khác nhau . Hoa cúc trong bài “Qua xuân” là khát vọng , ao ước của nhà thơ . Ông mong ánh trăng thu
chở hoa cúc về trong sương thu ban
g lan
g và hoa lặng lẽ lững lờ tỏa hương thơm
trong đêm. Cũng là hoa cúc trong vườn đêm thu đầy sương lạnh , nhưng chúng đang
khoe sắc mà nhà thơ ngỡ là chúng đang mim cười với nhau , làm cho tác giả như bớt
cô đơn, hiu quaṇ h hơn (Hiu quan
h). Cuối cùng, hoa cúc trong bài “Túp lều thơ” thì
giữa hoa và thi nhân như hòa làm môt , tri kỷ tri âm . Có thể nói , hoa cúc trong tâp
“Mù a cổ điển” đầm ấm như mùa thu cổ điển . Môt
mùa thu đầy âm sắc lan
g man
của tao nhân mặc khách , cảnh và tình hòa làm m ột trong con người thi nhân . Ở đây, giữa con người và thiên nhiên , giữa chủ thể và khách thể , giữa tiểu ngã và đaị ngã
chỉ là một, môt
sư ̣ hòa quyên
khăng khít . Vì thế mà nhà thơ đến thăm luống cúc già ,
để khi “Ra về sống á o đươm
mù i hương” . Đoc
câu thơ này của Quách Tấn làm tôi
nhớ đến câu thơ của Nguyêñ
hương bé n á o ; Tìm mai , đap
Ứ c Trai cách đây sáu trăm năm: “Há i cú c, ươm lan , nguyêṭ , tuyết xâm khăn” . Phải chăng Quách Tấn đã
chịu ảnh hưởng tiền nhân khi viết những dòng thơ trên?
Hoa cúc trong tâp
Đon
g bóng chiều lại có màu vàng rực rỡ . Cả một màu vàng
ngâp
tràn trên sân hoa như “phay phá y mưa” : “Sân hoa phay phá y mưa hoà ng
cúc” (Đối cảnh ). Còn đây là đôi nhà nh hoa cúc nở trong đêm thu đầy sương dưới
ánh trăng , đươc
nhà thơ biểu đaṭ bằng môt
ngôn ngữ cô đoṇ g , kiêm
lời , giàu hình
ảnh “thu ngâm
hương / môn
g đêm sương”:
Giếng cú c đôi nhà nh thu ngâm
hương,
Đôi nhà nh trăng nở môn
g đêm sương.
Hay như hoa cúc chờ đơi
(Giếng cú c)
thu về mới phô phang cái sắc vàng thơm tươi :
Thương xuân thươc
dươc
xếp hồng trang,
Giếng cú c chờ thu ngâm ý và ng.
(Hoa là i)
Cái sắc vàng rực rỡ kia đã làm cho không gian mùa t hu thêm đầy ý vi.̣ Và có lẽ chính màu vàng rực rỡ đó đã khẳng định một hương thơ Qu ách Tấn mang đặt trưng
riêng: “Giếng cú c chờ thu ngâm
ý và ng”, môt
hình ảnh thơ đâm
sắc thái biểu cảm!
Qua đến tâp
thơ Môn
g Ngân Sơn thì hoa cúc laị chứ a chan tâm sư ̣ :
Lê ̣nến thềm hoa rung,
Hương xưa chơt
thoảng lòng.
Bóng ai ngày mừng sáng, Vầy cú c giếng thu trong.
(Bóng hương xưa)
Và trong tập thơ ngũ ngôn Mây cổ thá p , hoa cúc laị nở rô ̣trong mùa thu ở những bài thơ : Ly trà sớ m , Đơm lòng, Vườ n cú c, Nắng hanh, Trồng hoa cú c , Tình hoa lá … Có thể trích ra đây vài c âu thơ với những từ ngữ thuần Việt như “chập chợt”, “nôn nao” giàu sắc thái biểu cảm như:
- Khóm cúc vừa đơm hoa,
Bên song hương châp
(Đơm lòng)
chơṭ .
- Nôn nao bà ng trú t lá ,
Lăn
g lẽ cú c đơm hoa.
(Nắng hanh)
Thi nhân yêu hoa cúc nên bắt chước trồng hoa cúc nhưng:
Cúc người đặng đầy hoa, Cúc mình trong những lá. Cúc tặng từng quen xuân, Cúc trồng ngờ mới hạ.
(Tình hoa lá)
Cúc được nhà thơ trồng không ra hoa kịp Tết vì ông đã trồng cúc vào tiết Trùng dương nên bị muôṇ , vì nhân gian có câu “Lễ Vu lan lang thang trồng cú c”
tứ c trồng vào dịp rằm tháng bảy âm lịch thì cúc mới kip
ra hoa vào dip
Tết. Tuy vây
thi tứ vân traǹ đâỳ trong thơ “Hương và ng chất chứ a luc̣ ” (Vườ n cú c).
- Tiếp theo là hình ảnh chim é n. Để có những hình ảnh miêu tả sắc nét về chim én thật không đơn giản ! Bởi lẽ chim én lấy bầu trời làm nơi bay nhảy , còn Quách
Tấn – môt
con người hữu han
tr ong kiếp đời – chỉ tồn tại được ở mặt đất . Giữa bầu
trời xanh vời vơi
kia và măṭ đất mênh mông này có môt
khoảng cách : khoảng cách
giữa cái vô han
và cái hữu han
. Cần lưu ý là, hình ảnh chim é n đươc
xuất hiên
nhiều
trong tâp
thơ “Mây cổ thá p” (1972). Đây là khoảng thời gian nhà thơ vừa mổ môt
con mắt ; đó cũng là khoảng cách trong tầm nhìn của thi sĩ . Thế nhưng , vươt
qua
mọi khoảng cách , vươt
lên trên tất cả khó khăn , Quách Tấn vẫn mở r ộng lòng mình
đón thiên nhiên, thân mâṭ tiếp người ban
tri kỷ của moi
kiếp người :
Ríu rít đôi liền đôi, Phòng thơ én liệng mồi.
(Én liệng phòng)
Qua hình ảnh “chim én” cho thấy rõ thơ Quách Tấn thật sự đã thoát sáo, không ước lệ lối mòn mà cảm hứng thơ ông lấy từ hiện thực xung quanh thành phố Nha Trang. Từ dưới sân nhà thơ đã nhìn lên bầu trời và gặp được mây hồng rực rỡ cùng
với én liêṇ g. Trong thơ Quách Tấn chim én đã chiếm môt khung trờ i rôṇ g lớn. Chim
én có thật trong khung cảnh trước nhà . Nha Trang là xứ sở của loài chim én . Chim én đã hiện hữu cùng với đầm Xương Huân, với nước mây trước nhà thi sĩ:
Vừ ng hồng vừ a hé moc, Mở cử a é n và o nhà .
(Én vào nhà)
hoăc̣ : Én liệng đầm Xương Huân,
và: Song thu nhìn é n liêṇ g,
Thấp thoá ng bóng tà dương.
Đọc những câu thơ trên, người đoc có cam̉ tưởng dường như giữa thi sĩ và
thiên nhiên (ở đây là hình ảnh chim én ) có sự đồng điệu. Sư ̣ đồng điêu
đó bắt nguồn
từ tình yêu thiên nhiên trong con người nhà thơ; sư ̣ đồng điêu đó còn là sư ̣ t ương
quan vô hình ảnh, như đã trình bày, chim én chao liêṇ g trên bầu trời còn Quách Tấn tồn taị trên măṭ đất , mà giữa bầu trời và mặt đất lại có khoảng cách . Nhưng tưụ
trung laị , chim én vân
là cái “tiểu ngã ” trong cái “đai
ngã” – bầu trờ i và Quách
Tấn vân
là cái “nhất thể” trong cái “đai
thể” – măt
đất . Thiên nhiên là môt
“đai
thể” bao trùm khắp nơi nơi . Tương quan giữa con người và thiên nhiên là mối tương quan đối tác tương tư ̣ giữa người với người.
Quách Tấn không chỉ coi thiên nhiên như một thực thể khách quan mà còn
xem nó như môt con người thân mêń luôn luôn gâǹ gũi . Cảnh thiên nhiên trước mắt
là một nguồn vui , môt
đối tươn
g an ủi người thơ lúc buồn và c ũng là người cùng
chia sẻ với thi nhân những niềm vui . Trên bầu trời của Tổ quốc , những cánh én mùa
xuân vân
luôn luôn bay lươn
làm đep
cho cuôc
đời , trong khi những cánh én nơi xứ
Trầm hương vân
mang trên cánh màu xanh thẳm của biển, hương trầm của núi rừ ng
và gợi nhớ nắng mai , ánh chiều trên nước đầm Xương Huân . Trong thơ văn Quách Tấn, chúng đều ngưng đọng thành những vần thơ, câu văn đầy cảm xúc .
Chính vì yêu cánh én , yêu thiên nhiên bằng môt
tâm hồn giàu cảm xúc mà
lòng thi nhân mở rộng trước hoàng hôn . Đây là môt
nét đăc
biêṭ trong phong cách
thơ Quách Tấn . Thường thì trước cảnh hoàng hôn , con người bao giờ cũng buồn .
Nhà thơ Thô i Hiêu
đời Đường đã từ ng viết trong bài Hoàng Hạc lâu : Nhât mô
hương quan hà xứ thi,̣ / Yên ba giang thương sử nhân sầu . Thời tiêǹ chiêń , Huy Cân
cũng đã gởi gắm nỗi buồn trên sông nước mênh mang để rồi nỗi buồn đó như trả i
rôṇ g ra nơi chân trời viên
xứ , ở môt
vùng quê xa lắc xa lơ và khép laị bằng nỗi nhơ
nhà da diết đau đáu trong bốn câu cuối trong bài Tràng giang.
Hoàng hôn thường là thời gian để gia đình sum hop
đầm ấm. Nó sẽ là nỗi buồn
đối với những ai xa quê, đang trên đườ ng lữ thứ . Riêng với Quách Tấn thì trái lai . Nhà thơ không buồn . Lòng thi nhân như mở rộng để đón nhận hoàng hôn với nét
măṭ raṇ g rỡ . Dường như tâm hồn nhà thơ đã hòa hơp với thiên nhiên , đã đi sâu vaò
cái nhất thể của vũ trụ, gần như tất cả vũ trụ đều đọng lại trong thơ:
Hoàng hôn lòng mở rộng, Mày nguyệt nét thanh tân.
- Cuối cùng là hình ảnh trăng. Trăng là đề tài muôn thuở của thi ca . Mỗi nhà thơ đã mirêu tả , tái hiện nàng trăng với những dáng vẻ , sắc thái khác nhau , nét đẹp khác nhau, để tạo nên cái riêng của mình . Sắc thái ấy như từ ng ánh trăng lung linh , huyền ảo đang chiếu sáng, dát vàng khắp thế gian.
Trăng trong thơ Quách Tấn cũng l à một trong những ánh trăng thơ mộng kia . Có thể nói trăng là nỗi “á m ảnh” trong hồn thơ Quách Tấn , vì thế ông có hẳn mấy
tâp
thơ về hình ảnh trăng : Giọt trăng (1966-1972), Nử a vầng trăng lan
h (1975-
1976) , Trăng hoà ng hôn (1975-1977).
Cũng như chim én, cảnh đêm sương rất đặc trưng của Đà Lạt cũng nói về cảm
xúc thực của Quách Tấn. Đơn cử như bài “Đà Lat
đêm sương” trong tâp
Môt
tấm
lòng. Bài thơ chỉ với ba khổ thơ thất ngôn , ấy thế mà , thi nhân đã đưa người đ ọc vào quá trình biến chuyển của không gian , thời gian và xúc cảm của người thưởng
ngoạn cảnh hồ dưới ánh trăng trong đêm sương ; thi nhân còn dân cảnh thực đầy màu sắc vào cõi mộng say say :
Bóng trăng lóng lánh mặt hồ im, Thờ i khắc theo nhau lải rải chìm. Đứng tựa non cao bờ suối ngọc,
người đoc
đi tư
Hồn say nhè nhe ̣môn
g êm êm.
Rồi tiến vào thế giới mờ ảo mênh mang không còn gì để bám tưa . Môṇ g cũng
tan mà thưc cũng tan, chỉ còn một bóng người giữa hư vô:
Môt
là n sương bac
bôn
g từ mô,
Lẻn cuốn vừng trăng cuốn mặt hồ.
Cuốn cả non sao bờ suối ngoc,
Ngườ i lơ lử ng đứ ng giữa hư vô.
Cuối cùng, thi nhân đưa người đoc xuyên qua thế giới m ộng với một gam màu
trong suốt để tận hưởng hạnh phúc đê mê của cõi thiên thai :
Trờ i đất tan ra thà nh thủy tinh,
Môt
bà n tay ngoc
đâm
hương trinh.
Âm thầm mơn trớ n bên đôi má ,
Hơi má t đê mê chay khắp mình.
Toàn bộ bài thơ được chiếu sá ng bởi á nh trăng bàng bac . Ánh sań g lam̀ khuôn
trăng dưới nước, trên trời càng long lanh. Ngươc
laị, ánh trăng long lanh đã làm cho
măṭ hồ thoáng rưc
sáng, đầy thơ môṇ g! Nhà thơ tận hưởng từng giây từng phút cảnh
sắc kỳ diêu , mênh mông, thơ môṇ g âý với cam̉ quan và tỉnh thứ c của mình . Vì vậy,
nhà thơ thấy được từng đơn vị thời gian đi qua . Nhà thơ đã níu thời gian chậm bước để mong kéo dài thời khắc hưởng thụ vẻ đẹp huyền ảo của thiên nhiên . Và trong khung cảnh huyền ảo ấy , thời gian đã chiều theo ước muốn của thi nhân , thời khắc
dừ ng laị và hiên
thành môt
hữu thể có mắt, có tình.
Thời khắc không những chiều lòng thi nhân mà đã trở thành môt “kẻ ngắm
cảnh” để cùng thi nhân thưởng cảnh, trong cảnh ấy chính thi nhân laị trở thành môt
bóng hình thầm lặng đứng “tưa
non cao” bên “bờ suối ngoc
” say sưa chìm đắm
trong “Bóng trăng lóng lá nh măt hồ im” . Ôi thơ môṇ g lam̀ sao ! Sông Ngân đã rời
bỏ vũ trụ tuôn thành dòng suối ngọc lung linh ru mơ cho thi nhân .
Con người vân
thường mong đươc
hòa nhâp
, trầm lắng vào thiên nhiên và suối
nguồn của van
hữu . Với Quách Tấn trong “Đà Lat
đêm sương” , tất cả vẻ đep
của
thiên nhiên diêm
ảo lung linh trong suốt đã hôi
tu ̣vây quanh thi nhân .
Nếu như ở bài “Đà Lat
đêm sương” ánh trăng mang vẻ đẹp lung linh huyền ảo
thì ở bài “Bên sông” cũng là trăng, nhưng mang sư ̣ hòa quyên cả trời nước:
Gió rủ canh đi ngàn liêu
khói,
Sông đừ a lanh đến bóng trăng trong.
Thuyền ai tiếng há t trên kia vẳng, Ghé lại cho nhau gởi chút buồn.
Ánh trăng ở đây là ánh trăng trong , như môt
tấm gương phản chiếu roi
ảnh
hình của thiên nhiên , của cuộc sống . Ánh trăng chiếu xuống dòng sông , rải bao
nhiêu là gơn vaǹ g trên sông . Từ đó, dòng sông lạnh với sương khói ở dưới đất khúc
xạ lên ánh trăng nơi bầu trời . Cả bầu trời, cả mặt đất , cả không gian , cả vũ trụ sóng
sánh ánh và ng của trăng . “Lan
h” môt
tính từ đươc
Quách Tấn sử duṇ g đúng lúc
đúng chỗ . Nó như là “nhãn tự” của câu thơ , của cả bài thơ . “Lanh” đã thổi vaò
“Bóng trăng trong” môt hơi thở mới, tạo sức sống mới. Bóng trăng kia không chỉ là
vâṭ thể để con người ngắm nhìn , không chỉ là tinh tú của màn đêm mà ở đây nàng
trăng như mang sư ̣ sống của con người , mang những cảm xúc bình di ̣môc
mac
của
kiếp người. Cái lạnh của đêm thanh tĩnh , của gió sông tác đ ộng vào nàng trăng , làm
cho người đoc
có cảm tưởng ánh trăng kia cũng “là nh lan
h”, cả khoảng đêm “là nh
lạnh”, và con người trong khung cảnh đấy cũng “lan
h”, để rồi theo cái “lan
h” của
người ngắm cảnh thổi đến, người đoc
cũng rùng mình theo.
Qua những hình ảnh thiên nhiên vừ a phân tích , có thể nhận thấy sở dĩ Quách
Tấn truyền đươc
cái đep
của thiên nhiên để rung cảm người đoc
là vì nhà thơ đa
sống, đã hòa nhâp
vào thiên nhiên và nhất là đã có môt
quan niêm
sống , môt tư
tưởng hòa nhip
với thế giới gồm cả vâṭ chất lân
tinh thần cùng với hồn thiêng của
Quê hương, Đất nước.
Quách Tấn không chỉ là nhà thơ yêu thiên nhiên mà hồn thơ của ông còn hòa
quyên
cùng thiê n nhiên. Thi sĩ không dùng thiên nhiên để nói về mình, hay tâm sự
mà thể hiện thiên nhiên như môt kỷ niệm về quê hương yêu dấu .
nhu cầu tâm linh, xuất phát từ môt
tấm lòng , môt
Qua viêc
tìm hiểu cảm hứ ng này , người đoc
dễ dàng nhân
ra nét tài hoa, tinh tế
trong văn phong của Quách Tấn . Bút lực ấy đã làm mọi người ngạc nhiên . Sư ̣ ngac
nhiên đó do thi nhân đã thổi vào thiên nhiên môt tình yêu mới : tình yêu mang cốt
cách của Quách Tấn và nói đơn giản hơn đây chính là “bình cũ rươu mới”.
Thiên nhiên trong thơ Quách Tấn thâṭ đăc
biêt
, vừ a mang phong cách hiên
đai
vừ a có cốt cách cổ điển . Để có môt văn phong taì hoa như thế thâṭ không đơn gian̉ .
Đây là sư ̣ hòa nhâp
giữa cũ v à mới để tạo nên môt
tổng thể duy nhất , làm nên chất
hương thơ Quá ch Tấn.
2.3. CẢM HỨNG VỀ QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC
Đề tài và cảm hứng về quê hương đất nước là một truyền thống lớn, một nội dung chủ yếu và cũng là chủ đề xuyên suốt của văn học Việt Nam. Qua đề tài - cảm hứng này, các tác giả đã bộc lộ lòng yêu quê hương đất nước của mình và ít nhiều
đã truyển tải tình yêu ấy đến với người đọc. Cảm hứng về quê hương đất nước trong thơ Đường luật nửa đầu thế kỷ không chỉ thể hiện trong bộ phận văn học cách mạng mà còn thấy thấp thoáng trong bộ phận văn học công khai hợp pháp. Trên báo chí, nhiều lúc các tác giả muốn bộc lộ lòng yêu nước thương nhà của mình nhưng vì chế độ kiểm duyệt quá gắt gao của thực dân nên họ phải tìm cách nói quanh co, bóng gió, kín đáo. Có thể nêu ra đây một vài thi phẩm viết theo thể thơ Đường luật của vài tác giả cùng thời với Quách Tấn. Giang Hồ Du Tử trong bài Đọc sử cảm vịnh đã cất lời kêu gọi kín đáo: “Bốn nghìn năm lẻ đắp xây nên,/ Dân chẳng ngu si nước chẳng hèn./ Muôn dặm non sông màu gấm vóc,/ Một đoàn con cháu giống rồng tiên./ Thịnh suy ngắm lại gương tang hải,/ Thời thế trông vào bạn thiếu niên./ Nhắn nhủ ai ơi nên gắng sức, Võ đài này chính buổi đua chen. (Đọc sử cảm vịnh - Giang Hồ Du Tử). Nguyễn Văn Năng sau khi gợi lại một thời oai hùng của cha ông như Đinh Bộ Lĩnh với ngọn cờ lau, dòng Bạch Đằng với chiến công hiển hách của Ngô Quyền, của Trần Quốc Tuấn ở câu thực và luận thì nhà thơ đã than thở cho vận nước suy vi ở câu đề và kết: “Bâng khuâng hồn nước cũ,/ Đau đớn nhớ người xưa. (…) Trời đất này ngao ngán,/ Lòng ai bối rối tơ.” (Nhớ - Nguyễn Văn Năng). Và trong câu thực:“Nhớ người chưa ráo đôi hàng lệ,/ Đợi nước thêm đau một tấm lòng”; câu kết: “Phen này tỉnh dậy xem sao đã, Nam tử sao đành phụ núi sông.” trong bài Đêm không ngủ của Nguyễn Văn Năng cũng thể hiện nội dung vừa nêu. Một số tác giả thì dùng thể Đường luật với bút pháp trào phúng để công kích những tên tay sai bán nước cầu vinh, mà những thi phẩm này có bài được đăng trên báo chí tiến bộ công khai như Lê Quang Chiểu với bài Mắng Tôn Thọ Tường; Lê Cương Phụng với bài Trở về Huế; Phan Điện với bài Vịnh Hoàng Cao Khải… Tất cả đều là những thi phẩm chứa chan lòng yêu quê hương đất nước.
Với thơ Đường luật của Quách Tấn, trong hồi ký Bóng ngày qua, nhà thơ cho biết tập Bó hoa rừng với 50 bài thơ Đường luật của ông và Hàn Mặc Tử sở dĩ không dám cho xuất bản vì trong lời đề Tựa, nhà chí sĩ Sào Nam Phan Bội Châu đã hạ bút khen “hai ngọn bút có lực”, “hai mảnh hồn thắm thiết nghĩa non sông” mà theo hồi ký của Quách Tấn thì: “thời bấy giờ ngấm ngầm yêu nước mà có khi còn bị tù tội, huống hồ nỗi lòng gởi gắm vào thơ “bị” bậc cách mạng lừng danh “phác giác”. Nỗi mừng không thắng nỗi sợ…” [71,tr.192].