Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời...
Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa, Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi. Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá! Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi.
(1939)
Thì ra, Ngân Giang đã tái hiện sự nghiệp hiển hách của Trưng Nữ Vương vừa bằng cảm hứng dân tộc lịch sử để tạo ra chất sử thi sảng khoái vừa bằng cảm quan về chính thân phận mình - một người phụ nữ tài sắc mà bơ vơ cô độc giữa cõi đời. Cái chất nhân văn trong thi phẩm tuyệt tác này là ở chỗ đó, nhất là bốn câu cuối bài. Nhà thơ Đông Hồ, bạn của nữ sĩ Ngân Giang, trong khi bình giảng bốn câu thơ cuối cùng của bài thơ trên đã sung sướng quá, xúc động quá, nên đã đột quỵ ngay tại giảng đường Đại học Văn khoa Sài Gòn vào ngày 25-3-1969!
Riêng Quách Tấn trong hai tập thơ xuất bản trước năm 1945, ông không viết thơ vịnh sử mà chỉ có thơ vịnh cảnh, tức cảnh, cảm hoài. So với các nhà thơ cùng thời, sư ̣ khác biêṭ của thơ Quách Tấn về cảm hứng nỗi niềm hoài cổ là ở chỗ nhà thơ
nói lên những niềm nuối tiếc , luyến tiếc của mình về một thời đã xa , về môt caí gi
đó trong quá van
g mà không mong có ngày găp
lai
Có thể bạn quan tâm!
- Xác lập mã nghệ thuật thơ Đường luật của Quách Tấn - 11
- Xác lập mã nghệ thuật thơ Đường luật của Quách Tấn - 12
- Quê Hương Đấ T Nướ C: Những Nơi Chốn Đã Đi Qua
- Những Thể Thơ Được Quách Tấn Sử Dụng Trong Các Tập Thơ
- Cách Dùng Từ Ghép Nghĩa Trên Cơ Sở Láy Âm (Từ Ghép - Láy)
- Cách Dùng Kỹ Thuật Nhồi Chữ , Điêp Dòng Thơ, Tạo Âm Hưởng Điệp Khúc
Xem toàn bộ 173 trang tài liệu này.
; đó còn là niềm thương nhơ
người xưa, nhất là những mối tình của môt thời trai trẻ . Có thể bắt gặp tâm traṇ g
này ở bất kỳ nhà thơ nào, nhưng Quách Tấn có cái tâm sư ̣ riêng của ông. Đoc
thơ
ông, người đoc
sẽ cảm nhân
về một Quách Tấn với dáng hình, tâm tư triu
năṇ g cùng
những gì đã ảnh hưởng sâu đâm đêń cả đời thơ của ông. Nói đơn giản hơn, đó chính
là những dòng thơ được viết ra từ cõi lòng chân thật , ghi laị những kỷ niêm
thât ,
không hề che đây
hay giấu giếm . Những dòng thơ đó “chất năṇ g ưu tư , ẩn dấu
những nỗi buồn xa vắng” như Đăṇ g Thi ̣Hảo đã nhân [24,tr.1470].
điṇ h trong Từ điển văn hoc
Nỗi niềm hoài cổ của Quách Tấn được thể hiện rõ nhất ở bài “Đêm thu nghe quạ kêu”. Bài thơ được Hoài Thanh ví “có thể sánh ngang với thơ Đường , thơ Tống ngày xưa” [74,tr.267], và bài thơ này cũng đ ược xem là “sư ̣ mang năṇ g đẻ đau” của chính nhà thơ:
Từ Ô Y hạng rủ rê sang,
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng…
Trờ i bến Phong Kiều sương thấp thoá ng,
Thu sông Xích Bích nguyêt mơ mà ng.
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc, Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng?
Tiếng dôi
lưng mây đồng von
g mãi,
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang…
Sở dĩ nói bài thơ mang nỗi niềm hoài cổ bởi lẽ theo như lời th ư của Quách Tấn
gử i thi sĩ Bàng Bá Lân: “Những thơ của tôi phần nhiều đều có môt “lic̣ h sử ” và môt
“tâm sư”
. Có bài đã nằm trong người tôi hàng chín , mười năm , rồi môt
khi găp
duyên lành liền phát hiên . Như baì“Đêm thu nghe quạ kêu” là một . Nguồn cam̉
xúc bài thơ này nằm trong người tôi ngót 12 năm trời” [73,tr.26].
Trong tác phẩm “Trườ ng Xuyên thi thoai
– Những bà i thơ kỷ niêm
” [73],
Quách Tấn đã kể lại lai lịch , hoàn cảnh ra đời của bài thơ . Đaị để là, hồi còn trai trẻ, năm 1927, khi ông còn ở quê nhà , mẹ ông bị bệnh , ông đi bốc thuốc cho bà , khi về trời tối . Đêm ấy có trăng nhưng không sáng vì trời đầy sương . Trên đường về , vì nghe tiếng đôṇ g nên bầy qua ̣thảng thốt , kêu thất thanh , rùng rợn. Từ đó tiến g qua
ám ảnh ông. Sau đó me ̣mất. Nhưng tiếng qua ̣vân
nao
nùng. Mãi đến năm 1939, khi
đã về làm viêc
taị Nha Trang , trong môt
đêm khuya , ông đang ngồi hóng mát với
người ban
thơ Nguyên
Đình , lại một lần nữa, ông nghe tiếng quạ kêu rộn ràng . Suốt
đêm không ngủ , nhà thơ nhớ mẹ , nhớ bồi hồi làng xưa , nước mắt tuôn trào . Sau đó , nhà thơ cất bút viết bài “Đêm thu nghe quạ kêu”.
Từ đó , người đoc
ít nhiều sẽ nhân
ra đươc
tín hiêu
nghê ̣thuâṭ thấp th oáng sau
những câu thơ . Để hình thành bài thơ “Đêm thu nghe quạ kêu” , không chỉ có văn bản với những cấu trúc nghệ thuật thơ biểu hiện trong tác phẩm , mà còn phải tính đến những yếu tố ngoài văn bản , có tác dụng hình thàn h văn bản . Nếu không , sẽ không thấy hết ý nghĩ a, nghê ̣thuâṭ của tác phẩm . Chính cái nỗi niềm hoài cổ mà
Quách Tấn đã thai nghén ý thơ , ngôn ngữ thơ trong cả 12 năm, đúng môt giaṕ trong
hê ̣can chi. Để rồi từ cái nỗi niềm hoài cổ trên mà các yếu tố địa lý , văn hóa ám ảnh nhà thơ, tạo ra những liên tưởng , chắp nối để hình thành tác phẩm . Cái thực hóa cái
môṇ g, cái thực bớt đi phần cụ thể rùng rợn , thê lương. Bến đò An Thái , con sông
Côn, tiếng qua ̣nao
nùng chỉ còn trong tâm thứ c , từ ngữ đươc
ghi laị trên văn bản đa
bị “khúc xa”
đi nhiều . Muốn rõ ngon
nguồn lac̣ h sô ng cần tiếp cân
cấu trúc nghê
thuâṭ tác phẩm, tiếp cân câú trúc văn ban̉ và cả câú trúc ngoài văn bản. Cái nỗi niềm
hoài cổ biểu hiện thông qua tín hiệu nghệ thuật đã thể hiện con người và khuynh hướng nghê ̣thuâṭ nhà thơ.
Cần phải nói thêm rằng , ở bài “Đêm thu nghe quạ kêu” cũng thể hiện một
phong cách của Q uách Tấn là thườn g dùng điển cố , điển tích rất riêng theo phương
thứ c liên tưởng – cảm giác . Những hình ảnh thưc
, môṇ g hiên
ra , ẩn vào đan xen ,
quấn quít lấy nhau , từ đó hàng loaṭ điển cố , điển tích Đường thi vốn đã thấ m sâu
trong con người cổ điển Quách Tấn dần xuất hiên trên trang giâý , trên những dòng
thơ. Về ý tưởng , bài thơ không chỉ bắt nguồn từ cảm xúc thật của tác giả , mà còn chịu ảnh hưởng từ ba bài thơ nổi tiếng đời Đường mà ở trước luận văn có nhắc đến. Chính nỗi niềm hoài cổ mà Quách Tấn đã để lại cho hậu thế một kiệt tác , đồng
thời vi ̣trí của ông càng đươc khẳng điṇ h trên thi đaǹ Viêṭ Nam . Bên caṇ h đó , bạn
đoc
cũng thích thú , tò mò trước nỗi niềm hoài cổ của ông, bởi lẽ bài thơ “Đêm thu
nghe quạ kêu” đươc
thai nghén đúng môt
giáp tròn , hình thành trong nửa đêm . Rồi
đến hai năm sau (1941) mới đươc sử a chữa laị . Đồng thời, có một sự ngẫu nhiên lạ
lùng: Quách Tấn bi ̣tiếng qua ̣ám ảnh vào năm Đinh Mao (1927), rồi viêt́ baì thơ
này vào năm Kỷ Mão (1939), sau đó tác giả viết lại sự tích, hoàn cảnh ra đời bài thơ
vào năm Quý Mão (1963) gởi cho Bàng Bá Lân . Ba năm Mao
gắn với môt
b ài thơ.
Âu cũng là thiên
duyên!
Nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ còn thể hiên
trong bài “Môn
g thấy Hà n Măc
Tử ”: Ôi Lê ̣Thanh ! Ôi Lê ̣Thanh,
Môt
giấc trưa nay lai
găp
mình.
Nhan sắc châu phun mà u phú quý , Tài hoa bút trổ né t tinh anh.
Rươu
tà n thu cũ say sưa chuyên,
Hưởng tạ trờ i cao bá t ngá t tình.
Tôi khóc tôi cườ i vang cả mông,
Nhớ thương đưa lac gió qua mà nh.
Bài thơ in trong “Mù a cổ điển” (1941) đươc Quach́ Tâń viêt́ vaò khoan̉ g
1939-1940. Có thể xem đây là một bức thư bằng thơ của Quách Tấn gởi cho Hàn
Măc
Tử sau môt
giấc môṇ g đep
ban trưa. Mở đầu bài thơ là tiếng goi
ban
đến hai
lần. Tiếng goi
như dồn chứ a nỗi niềm thiết tha nhớ ban
. Nhớ ban
là nh ớ những vần
thơ như châu phun, nét bút tinh anh của bạn. Nhớ baṇ , nhà thơ đã khóc, cườ i vang
cả mộng . Trên thưc
tế thì lúc bấy giờ Hàn Măc
Tử đã vào nhà thương ở Quy Hòa
(Quy Nhơn), nhưng trong môṇ g laị thấy Tử laị sắc sả o măn mà hơn xưa. Phải chăng
Quách Tấn biết mình sắp phải “chia xa” Hàn Mặc Tử , mình sắp mất đi một tri âm
tri kỷ nên nhà thơ đã “hoài cổ” , nhớ laị những hình ảnh đep
về ban
, giữ laị những
nét thanh xuân nhất về bạn ? Có thể thấy chữ “tôi” trong bài này rất mới, cảm xúc dâng tràn ít thấy trong thơ cổ.
Có thể nói , làm thơ là để gởi gắm cõi lòng . Quách Tấn cũng thế . Thơ của ông
thường khắc ghi những kỷ niêm
về môt
thời đã xa , khó lòng gặp lại . Đó còn là
những kỷ niêm
đep
về những mối tình của thi nhân môt
thời trai trẻ với Liên Tâm ,
với Chứ c Thành . Chính những mối tình ấy đã làm nên chất men để góp phần tạo cảm hứng cho thi nhân đề thơ , mà trong hồi ký Bóng ngày qua, nhà thơ có nói rất rõ. Cũng không phải ngẫu nhiên mà nhan đề các tập thơ của ông đã mang cái ý hoài
niêm
Môṇ
, tưởng nhớ một thời đã xa như : Môt g Ngân Sơn…
tấm lòng, Mùa cổ điển, Đon
g bóng chiều,
2.5. CẢM HỨNG THIỀN ĐẠO
Cảm hứng này rất ít gặp trong hai tập thơ xuất bản trước năm 1945, mà nhiều nhất là ở những tập thơ sau này như các tập: Đọng bóng chiều, Mộng Ngân Sơn, Giọt trăng. Cùng thời với Quách Tấn có nhà thơ J.Leiba (Lê Văn Bái) với bài Bến giác mang cảm hứng Thiền - Phật và ít nhiều có pha chất Lão - Trang. Nhà thơ xem cuộc đời là hư ảo, là “phù thế”, nên nhà thơ hơi bi quan, muốn xa lánh cõi đời. Tác giả đã dùng nhiều từ ngữ nhà Phật để diễn đạt ý tưởng trên:
Phù thế đã nhiều duyên nghiệp quá! Lệ lòng mong cạn chốn am Không. Cửa Thiền một đóng duyên trần dứt, Quên hết người quen chốn bụi hồng.
Riêng Quách Tấn, nói như nhà nghiên cứu Trần Phong Giao thì “thơ Quách Tấn càng về sau đã “thấy”, đã “nhâp̣ ” vào Thiền, đã “cảm dưỡng hào khí của Thi ền tông Viêṭ Nam” [19,tr.287-296].
2.5.1. Nhìn thiên nhiên qua cảm quan Thiền đạo
Quách Tấn là một Phật tử thuần thành , ông thường nghiền ngâm , nghiên cứ u
kinh Phâṭ , nên thơ của ông ít nhiều cũng mang cảm quan triết lý nhà Phâṭ v à mang cả cảm hứng đạo học. Điều này được thể hiện qua những vần thơ viết về thiên nhiên của ông. Thiên nhiên được nhìn qua cảm quan Thiền đạo.
Trong mối quan hê ̣qua laị giữa thi nhân và thiên nhiên , tính tương hỗ từ thể
xác qua trí t uê ̣đến tâm linh đã phơi bày môt
cách tích cưc
và không mâu thuân .
Quách Tấn không chỉ nhìn ngắm thiên nhiên với con mắt thẩm mỹ mà còn với cả
con mắt triết lý và tâm linh . Ta có cảm tưởng Quách Tấn đã hòa quyên cùng thiê n
nhiên, khăng khít trong mối quan hê ̣giữa tiểu ngã và đaị ngã để làm thành khối đồng nhất, mà thiên nhiên là tiền đề, là điều kiện để khởi động từng phút , từ ng giây,
từ ng sát na cảm xúc của thi si,
hỗ trơ ̣ thi sĩ ý thứ c đươc
sư ̣ có măṭ của ngũ quan (ngũ
căn) và những tính năng của nó , mà thuật ngữ của nhà Phâṭ goi
là “nhãn thứ c, nhĩ
thứ c, tỵ thức , thiêt
thứ c , ý thức” . Thiên nhiên xung quanh ta là hiên
thân của đất ,
nước, không khí, năng lương măṭ trời, của sự vận hành tháng năm , với thời gian vô
tâṇ . Sư ̣ hòa nhâp
của nó cũng là hòa nhâp
vào suối nguồn của sư ̣ sống .
Cụ thể hơn, với môt vỏ sò khô , Quách Tấn cũng gởi vào nó hơi thở , hồn thơm
của một s ức sống thơ dạt dào . Nhìn vỏ sò khô , môt
thưc
thể chết , Quách Tấn lại
nghe tiếng reo vang voṇ g của biển khơi . Có sự sống , cái chết nào lại chẳng liên
quan đến môi trường sống với thế giới đồng hiên
hữu ? Hiên
thể của vỏ sò hoặc con
sò đâu thể thiếu vắng biển khơi. Tiểu ngã và đaị ngã tương duyên với nhau:
Vỏ sò khô ấp ủ,
Niềm băng tuyết đêm sương. Muôn xa bờ bến cũ,
Vang von
g sóng trù ng dương.
(Ấp ủ)
Và mỗi khi tiểu ngã và đaị ngã tương quan , tương duyên với nhau thì mỗi
đôṇ g tác đều gây sư ̣ chuyển đôṇ g dây chuyền . Môt caí búng chân nhaỷ của con caò
cào màu xanh cũng đủ khiến bầu trời buổi chiều thu rung chuyển :
Nướ c ngoan trờ i long lanh,
Con cà o cà o á o xanh. Bờ cao bú ng chân nhảy,
Mây chiều thu rung rinh.
(Búng chân)
Đây là nhân
thứ c triết lý – đúng hơn là đao
lý – của Quách Tấn. Nó bắt nguồn
từ sư ̣ thấm nhuần đao Phâṭ . Trong thế giới tương quan tương duyên và cả tương tać
nữa, thì đâu đâu cũng mang tính động thái và tính tiến trình . Tất cả đều tác đôṇ g qua laị , đều vận chuyển , nghĩa là không diễn ra theo một chiều mang tính định mêṇ h, mang tính “Sá ng thế”. Tính tương quan, tương duyên quyết điṇ h cho sư ̣ sinh
diêṭ cũng như hình ảnh , màu sắc của thiên nhiên cũng quyết định tính vô biên , vô
thường và vô ngã của nó . Thơ văn của Quách Tấn đã giúp người viết những dòng
chữ này hiểu sâu thêm nhận thức ấy . Trong hoàn cảnh cuôc sống có sư ̣ đổi thay aò
ạt từng phút từng giờ, hiếm có người nào ung dung, thong dong như Quách Tấn, bởi nhà thơ luôn giữ lòng tự tại trước thực tế thay đổi theo thời gia n. Có sự tĩnh tại đó là
nhờ thi sĩ đã nghiêm
ra , đã trưc
cảm đươc
cái lẽ“Là môn
g cũng là chân” để lượng
hương xuân ngào ngaṭ mai trong lòng:
Mườ i hai mù a lá rung,
Đây mù a hương nở xuân. Theo duyên lòng chẳng đổi, Là mộng cũng là chân.
(Nở xuân)
Môn
g huyên
và chân thât
xét đến cùng , có chung một bản thể . Nó là hai mặt
của một thực tại , bởi “Tâm pháp nhất như”, “Vạn vật nhất thể”. Nhà thơ đồng nhất
mông và chân là nhờ nhận thức được chân lý ấy . Chính vì nhà thơ tĩnh tâm trước
thưc
taị , nên đã chấm dứ t moi
bay nhảy , mọi tìm kiếm , đi và đế n để như “Chim
dừ ng cá nh biêt
ly” (Mơ Đao
), để không còn hỏi “Cảnh hay lòng?” và để nhận thức
đươc
rằng “Lòng vớ i cảnh không chia” (Quán trọ đêm thu) và:
Mây nướ c hằng tự taị , Vàng đá chẳng vô tri.
Thiên nhiên trong thơ Quách Tấn mang đâm
chất thanh tiṇ h và sung man
nét
đep
tâm linh trong sư ̣ “Ân á nh co
từ bi” , nhờ thế mà thi nhân dường như đã chứ ng
nghiêm
đươc
“Hương gió thoảng liên trì ” (Mơ Đao
) dù chỉ trong môt
sát na , môt
cái nháy mắt, môt
chút gió thoảng qua!
Tư tưởng Đao Phâṭ thâḿ nhuâǹ trong con người Quach́ Tâń . Vì thế trước khi
từ giã cõi đời, nhà thơ dặn dò con cháu nhớ khắc trên bia mô:
Nghìn xưa không còn nữa, Nghìn sau rồi cũng không. Phảng phất bờ trăng rạng, Hương Ưu đà m trổ bông.
(Thoáng hiện)
Tồn tai
và hủy diệt, sắc và không, hữu và vô đều cùng bản thể, nhất như. Nghìn
xưa không còn là thưc
taị . Quá khứ nghìn năm sau sẽ không còn ; và tương lai nghìn
năm sau dù chưa hiên
hữu cũng chẳng tồn tai
. Tất cả đều là Không. Giác ngộ và
thấu hiểu đươc
chữ Không trong tư tưởng triết hoc
nhà Phâṭ là cả những chuỗi thời
gian chiêm nghiêm
, nghiền ngâm
, suy tư. Không ở đây chẳng phải là sự đối đãi, đối
lập giữa “có” và “không”, “hữu” và “vô” mà là cái Không vượt lên trên. Đó là chân
không diệu hữu. Dường n hư Quách Tấn đã nghiêm
ra đươc
điều đó . Ông không
giữ chăṭ cái đã qua , cũng không sống với cái chưa có thực , không để cho những gì của quá khứ và tương lai chen vào phút giây đang hít thở , thì lúc đó vầng trăng rạng cũng cho “thấy” cả hương Ưu đàm . Hoa Ưu đàm là hoa Giác ngô ̣ , theo kinh Phâṭ ,
mấy nghìn năm mới nở hoa môt
lần . Dĩ nhiên hoa này không xuất hiện trong cuộc
sống ồn ã vang dôi
trong loa phát thanh và rôn
ràng xe cô ̣ , cũng không xuất hi ện ở
nơi đâu đâu, khi con người tấp nâp bay nhaỷ , tìm kiếm, đi và đêń ... Người ta chỉ găp
nó khi lòng mình thật sự lặng lẽ, thanh tinh.
Cũng như thiền sư Vạn Hạnh đời Lý, Quách Tấn đã xem “Thân như bóng chớp có rồi không”. Ông thường nói đùa rằng đời tôi có tứ thú và tam vô. Tứ thú là: Có tiền in sách đẹp,/ Gặp bạn sẵn thơ hay./ Giấc tỉnh hồi chuông sớm,/ Võng trưa
giấc ngủ ngày. Còn tam vô là: Không biết hút thuốc, không chơi cờ bạc và không đi xe đạp.
2.5.2. Hình ảnh tiếng chuông chùa
Tiếng chuông chùa đối với thi nhân như một kỷ vật thiêng liêng từng chôn sâu trong tiềm thức của ông, nên mỗi lần trông thấy cảnh núi non chùa chiền thì nó bỗng dưng trỗi dậy:
Núi Nhạn chuông ngân trời bảng lảng, Đầm Ô sen nở gió thơm tho.
Không những lắm lúc ngắm cảnh thiên nhiên, tiếng chuông chùa làm ông chú ý, mà mỗi khi chợt tỉnh giấc nồng, tiếng chuông cũng hiện đến:
Mây nước nhuốm phong trần, Nơi đâu tình cố nhân.
Những đêm buồn tỉnh giấc, Chùa cũ tiếng chuông ngân.
Nhờ nghe tiếng chuông chùa ngân vang mà khách hành hương trút hết mọi nỗi ưu phiền, như Chu Mạnh Trinh đã viết: “Lạ cho vừa bén mùi thiền,/ Mà trăm não với ngàn phiền sạch không”. Hay: “Thoảng bên tai một tiếng chày kình,/ Khách tang hải giật mình trong giấc mộng” (Hương Sơn phong cảnh ca).
Không khác gì cảm nhận của họ Chu, Quách Tấn cũng mô tả trạng thái tâm hồn mình khi đến viếng một cảnh chùa quen thuộc: “Người đến viếng cảnh chùa, lòng không rửa mà trong, thân không cánh mà nhẹ, ngồi tựa bóng cây đón mát, tưởng chừng mình đã xa lánh hẳn cõi trần tục.” [Nước non Bình Định]
Thế rồi, thoảng đâu đây như có tiếng gió ru hồn lữ khách:
Gió ru hồn mộng thiu thiu,
Chuông chùa rơi rụng bóng chiều đầy non.
Và thi sĩ tiếp: “Nếu không có tiếng chuông hay mộng thì mộng còn mãi chìm trong bóng mây rán, hoặc làm con cò vương hương bay lờ lững trong hồ sen yên tịnh.”
Cứ thế, thời gian trôi đi và bóng tịch dương dần dà đổ xuống với tiếng chuông chùa cổ thân yêu:
Mây tạnh non cao đọng nắng chiều,