Tiếng chuông chùa cũ vọng cô liêu. Thêm nhiều lá rụng cây quằn quại, Đã vắng người sang bến nhẩy triều.
Thế rồi, ngày lại ngày trong sự tất bật của cuộc sống đời thường, nhưng mỗi khi nhìn thấy cảnh chùa thì âm vang tiếng chuông lại ngân nga tựa hồ bất tận:
Chùa ẩn non mây trắng, Bóng in hồ liễu xanh.
Mai chiều chuông đã tạnh, Vòng sóng còn long lanh.
(Tiếng ngân)
Đây là hình ảnh thiên nhiên đầy tình tự, là khoảng trời xanh tinh khiết còn lại trong đôi mắt long lanh của một nhà thơ trong cảnh xế chiều của đời mình.
2.5.3. Một đạo tâm dào dạt
Có lần tôi đi theo ba tôi đến thăm nhà thơ, nghe ông tâm sự: “Gia đình tôi theo đạo Phật, và tôi chịu ảnh hưởng tư tưởng Thiền trong Phật giáo”. Và trong khi đàm đạo, ông thường nhắc đến ngọn đồi Trại Thủy, nơi tọa lạc của Phật học viện Nha trang, một trung tâm đào tạo Tăng tài trong giai đoạn cận hiện đại. Từ đó mới biết hồi ấy, Hòa thượng Thích Trí Thủ đàm nhiệm Giám viện Phật học viện lại là chỗ tương giao tâm đắc với thi sĩ, vì thế, một hôm lên thăm chùa, nhân ngẫu hứng thi sĩ đã cảm tác một bài ngũ ngôn, để tặng Hòa thượng:
Trăng lên đồi Trại Thủy, Chuông khua ngời âm ba. Bồi hồi mây khóa viện, Sân Bồ đề sương sa.
Ngoài ra, ngôi chùa Kim Liên tại Diên Khánh cũng là nơi lưu lại dấu chân của thi nhân. Một hôm đến viếng cảnh chùa, thấy Thượng tọa viện chủ tiếp đón khách tham quan niềm nỡ, ông liền làm bài thơ để lại lưu niệm:
Có thể bạn quan tâm!
- Xác lập mã nghệ thuật thơ Đường luật của Quách Tấn - 12
- Quê Hương Đấ T Nướ C: Những Nơi Chốn Đã Đi Qua
- Nhìn Thiên Nhiên Qua Cảm Quan Thiền Đạo
- Cách Dùng Từ Ghép Nghĩa Trên Cơ Sở Láy Âm (Từ Ghép - Láy)
- Cách Dùng Kỹ Thuật Nhồi Chữ , Điêp Dòng Thơ, Tạo Âm Hưởng Điệp Khúc
- Đổi Mớ I Trong Cá Ch Hòa Điêu
Xem toàn bộ 173 trang tài liệu này.
Dặm hồng dìu dịu nắng, Theo hứng viếng làng tu. Ngụm nước đằm chơn vị, Im lìm sen nở thu.
Người xưa từng nói: “Nhân giả nhạo sơn; trí giả nhạo thủy.” (Người nhân ưa cảnh núi rừng; người trí ưa nơi sông nước). Phải chăng vì vậy mà các cảnh chùa tiêu biểu cho đạo từ bi nhân ái – thường được xây cất trên các đồi núi? Thậm chí có những ngôi danh lam quanh năm mây phủ xa xôi chập chờn trông có vẻ tiêu dao thoát tục:
Cây chen đá chất chập chùng,
Biển giăng dưới núi, chùa lồng trong mây. Bụi đời không bợn mảy may,
Chút thân rộng tháng dài ngày thảnh thơi.
Phải chăng kiếp sống nhân sinh chập chờn như ảo mộng? Con người luôn luôn chơi vơi giữa dòng trường lưu bất tận, khiến đôi lúc nhà thơ chợt hứng cất tiếng gọi đò vang cả hư không:
Đời nửa khói mây chìm bóng mộng, Gọi đò một tiếng lạnh hư không.”
Ta nghe được dư âm của thiền sư Không Lộ đời Lý còn phảng phất đâu đây:
Hữu thì trực thướng cô phong đính, Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
(Ngôn hoài) (Có khi xông thẳng lên đầu núi,
Một tiếng kêu vang lạnh cả trời.) [Thơ văn Lý – Trần, tập 1]
Không những chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của các thiền sư - điều mà thi sĩ đã khẳng định - ông còn thâm nhập cốt lõi của kinh Duy Ma Cật:
Ngày qua chầm chậm vách kim thinh, Cảnh giới Duy Ma mình với mình.
Hoa rải tờ thơ hương lành lạnh,
Trăng cài nhánh mộng bóng xanh xanh.
Có lần ông thổ lộ cái ý vừa nêu: “Cây thiết mộc lan nở hoa lần này là lần thứ hai (tháng 12-1992). Lần trước nở tôi 79 tuổi (1989). Hai nhánh lan đã lên cao như hai cây sào, hoa nở trắng trên đọt, hương bay chập chờn theo gió, nghe lũ cháu reo mừng. Tôi tưởng chừng như hoa của thiên nữ từ trong vách Phương trượng của Duy Ma Cật bung ra rải xuống hạ giới vậy” [71].
Điều này chứng tỏ càng về già nhà thơ càng đến gần cõi Đạo, như nhà văn Trần Phong Giao nhận xét: “Tới lúc về già, ta thấy khí vị Thiền lung linh bàng bạc trong thơ Quách Tấn, nhất là trong nhiều bài in trong hai tập Mộng Ngân Sơn và Giọt trăng”.
Một hôm vào lúc xế chiều, Quách Tấn lên chùa Hải Đức (ở Nha Trang) thăm một người bạn vong niên (tương truyền là thầy Nguyên Tánh). Mặc dù tuổi tác chênh lệch nhau, nhưng hai tâm hồn như cùng chung một giai điệu:
Áo giũ ngày sương gió, Lên chùa thăm cố nhân. Non nghiêng thềm bóng xế, Lịu địu bóng nhàn vân.
Phong cách ấy quả thực có khác với thế nhân trong những lúc thù tạc vãng lai. Người đời đến và đi trong âm thanh và tốc độ của thời đại cơ khí, ồn ào và vội vã… Nhưng thời đại của nhà thơ là thời đại ẩn tình trầm lặng của một đám mây lơ lửng, lồng trong bóng núi nghiêng nghiêng. Người đời rồi cũng có lúc“Giũ áo phong sương trên gác trọ” để ngồi lại chiêm nghiệm chính mình, như thi sĩ đã làm:
Khép cửa phiền ba lại,
Vườn quê nắng sưởi tình. Thanh bình lòng giếng ngọt, Chim hót ngọc âm thanh.
Để thấy rõ hơn chân dung của Quách Tấn, chúng ta có thể nghe ý kiến của Phạm Công Thiện, một người bạn tâm giao của thi sĩ đã viết trong bài“Trách nhiệm của tuổi trẻ Việt Nam với Quách Tấn”: “Quách Tấn là một Phật tử trọn vẹn, đã thu tóm tất cả những bài thơ mộng của Phật giáo vào trong cuộc đời trầm lặng của mình. Quách Tấn đã đi ngược lại tất cả phong trào thời thượng… Ông xứng đáng là kẻ nối dòng của các vị thiền sư: Vạn Hạnh, Không Lộ, Ngộ Ấn, và tất cả những thiền sư thi sĩ đã nuôi dưỡng linh hồn của cả một dân tộc, linh hồn của Lý Thường Kiệt đánh Tống và Trần Hưng Đạo đánh Nguyên.” [19]
Phải chăng vì được nuôi dưỡng trong không khí tâm linh của các thiền sư thi sĩ quá khứ mà “Quách Tấn luôn luôn giữ phong độ của kẻ mang hào khí ngút ngàn? Mỗi hàng, mỗi câu đều thể hiện sáng sủa, uy nghiêm mà tràn ngập thi ca, khiến cho
người đọc „lòng không rửa mà trong, thân không cánh mà nhẹ‟. Tất cả con người Quách Tấn là thi ca, là tiếng báo hiệu của một sự tựu thành” như lời nhà văn Nguyễn Thái đã viết trong bài Quách Tấn: quê hương và thơ [19].
TIỂ U KẾ T
Có thể nói những cảm hứng chủ đạo trong thơ Quách Tấn có thể giống như các nhà thơ khác nhưng cảm hứng đấy vẫn mang phong cách riêng của Quách Tấn . Cũng là tả cảnh thiên nhiên nhưng bên cạnh tình cảm , nhà thơ còn biểu lộ triết lý
nhân sinh theo quan niêm
nhà Phâṭ . Để thể hiên
tình cảm – triết lý ấy, tác giả đã sử
dụng ngôn ngữ thơ , hình ảnh thơ để câu thơ không nặng nề , trái lại vẫn nhẹ nhàng ,
thanh thản và càng đoc , ý vị của câu thơ càng mới thấm dần , mới lan tỏa trong từ ng
mao mac̣ h của người đoc̣ .
Tình yêu quê hương đất nước trong thơ Quách Tấn man g đâm
tính nhân văn ,
thể hiên
nhân sinh quan tích cưc
của ông. Quách Tấn nhìn đất nước, nhìn quê hương
không chỉ để miêu tả , phản ảnh những cái hay , cái đẹp của xứ sở mình , của những nơi mà ông từ ng đi qua và của chính nhữ ng cảnh bình di ̣xung quanh nhà mình mà còn thể hiện cả tấm lòng của thi nhân đối với cảnh giang sơn cẩm tú , mỹ lệ của quê hương.
Cũng là nỗi niềm hoài cổ nhưng hoài cổ của Quách Tấn lại là những kỷ niệm
thâṭ, gắn liền với cuôc
đời riêng của ông . Nhờ thế, đoc
thơ Quách Tấn, người đoc se
hiểu thêm về cuôc hàm súc, tinh tế.
đời của chính bản thân nhà thơ thông qua ngôn từ chắt loc
, ý thơ
Rõ ràng, với bút lưc sắc saỏ , Quách Tấn đã làm mới những cam̉ hứ ng thơ , làm
mới những thi đề tưởng chừ ng như đã cũ . Nếu ví cảm hứ ng chủ đao
là môt
khung
cảnh quen thuộc thì dưới cái nhìn của Quách Tấn , ông đã tìm ra cho mình lối đi riêng, cách cảm nhận riêng về kh ung cảnh đó , mà vẫn không làm mất đi vẻ đẹp nguyên sơ của cảnh.
Chương 3
MÃ NGHỆ THUẬT THƠ ĐƯỜNG LUẬT CỦA QUÁCH TẤN NHÌN TỪ NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN
Trong chương này , luận văn sẽ không tìm hiểu nghê ̣thuâṭ thơ Quách Tấn môṭ cách chung chung, mà chủ yếu là cố gắng đi sâu tìm hiểu để chỉ ra những nét đổi mới, tứ c những cách tân nghê ̣thuâṭ trong thơ Đường luật của Quách Tấn, cụ thể là
tìm hiểu các yếu tố nghê ̣thuâṭ chính là thể thơ , ngôn ngữ thơ , nhịp điệu và giọng
điêu
thơ. Nhưng trước khi đi sâu trình bày những nét đăc
sắc nghê ̣thuât
rất riêng đo
của Quách Tấn, có lẽ cũng cần nêu ra đây quan niệm của chính tác giả về viêc thơ.
3.1. QUAN NIỆM CỦA QUÁCH TẤN VỀ VIỆC LÀM THƠ
làm
Quách Tấn là con người đa tài, thành công ở nhiều thể loại khác nhau. Bên cạnh sáng tác thơ, Quách Tấn còn dịch thơ văn chữ Hán, tiếng Pháp và viết biên khảo về văn hoá, địa chí, mà những công trình này đều được các nhà nghiên cứu và người đọc đánh giá cao.
Riêng về thơ, Quách Tấn thường suy tư, trăn trở và thường phát biểu quan niệm của mình về việc làm thơ.
3.1.1. Quan niêm
củ a nhà thơ về viêc
dùng điển, luyên
chữ
Quách Tấn là nhà thơ hiện đại, thời Thơ Mới, nhưng ông sáng tác theo thể thơ cũ, thường là thơ cách luật. Chính vì thế mà người đọc bắt gặp trong thơ ông một số điển cố, điển tích chẳng khác nào như thơ thời trung đại. Vì sao vậy? Thơ cách luật thường hàm súc, cô đọng, ít lời nhiều ý, ý tại ngôn ngoại, muốn vậy phải dùng điển. Việc này, Quách Tấn đã tâm sự trong tập hồi ký Bóng ngày qua (Đời văn chương) là nhiều nhất . Nhà thơ nhiều lần cho rằng , người làm thơ dùng điển để trang điểm
cho câu thơ về măṭ hình thứ c và mươn
nghia
của điển để diên
ý của mình . Người
dùng điển t hường thiên về lý trí . Trong hồi ký Bóng ngày qua (Đời văn chương),
Quách Tấn nói: “Tôi dùng điển để gơi
ý , nhất là để mươn
nguồn cảm hứ ng , nghĩa là
mươn
những trường hơp
riêng biêṭ của mỗi điển tích để truyền cho đôc
giả những
cảm giác ấy , cái thi vị ấy phải nhờ không khí điển tích gây trở lại mới mong thỏa mãn được ít nhiều” [71].
Theo Quách Tấn , khi sáng tác , người làm thơ dùng điển là chuyên
cưc
chẳng
đã. Nhà thơ nượn điển để giãi b ày cảm hứng , không phải vì bí ý , tứ mà là để diên
đaṭ môt
ý tưởng nào đó cho ý nhi ,
kín đáo, những ý không thể nói thẳng thừ ng . Nhà
thơ chỉ cần dùng môt
điển cố , điển tích có thể diên
đaṭ môt
ý tưởng , mà ý tưởng đo
nếu viết ra có thể rất dông dài . Ông viết: “Dùng điển là sư ̣ cưc chẳng đã . Có nhiều
điều không thể nói thẳng , không tiên
nói trắng , nên phải dùng điển cho đươc
uyển
chuyển, cho đươc
kín nhem
, đươc
thanh tao . Có nhiều ý phải nói hàng trang giấy
mới đủ, phải dùng điển làm “đại biểu” cho được gọn gàng” [71,tr.260].
Quách Tấn nghĩ rằng, có điển cố, điển tích mà không dùng thì thâṭ lan
g phí. Là
nhà thơ, nếu có vốn hiểu biết sâu rôṇ g , nhiều lúc không muốn dùng điển nhưng tư ̣ nó chợt đến , có khi dùng một cách không cố ý , để khi đọc lại mới vỗ vế mà cười . Lúc này thì thú vị biết bao ! Nhà thơ phải khổ công luyện chữ , để khi cần , hứ ng thơ
chơt
đến thì có ngay từ ngữ mà dùng , như móc từ túi ra , chứ không phải tốn công
tìm tòi. Người làm thơ chẳng khác người thơ ̣ mài ngoc giũa ngà , tứ c phaỉ duṇ g công
rèn chữ chuốt câu sao cho ý nhị , thanh thoát, đừ ng để laị môt tỳ vêt́ nào: “biêt́ nhiêù
điển tích nhiều khi mình không điṇ h dùng , tư ̣ nhiên chúng cũng đến đúng lúc. Lắm
khi chỉ có một ý mà điển đến cả mớ, điển này tranh với điển kia để phuc
vu ̣cho thơ;
làm người làm thơ phải mất công dàn x ếp cho ổn thỏa . Có khi chúng lén vào trong thơ lúc nào mình không hay biết; khi ngâm laị mới vỗ vế mà cười” [71,tr.260-261].
Ông nói tiếp về ki nh nghiêm
luyên
chữ làm thơ : “Khách làm thơ phải luyên
chữ trước khi làm thơ chớ không phải trong khi làm thơ . Họ luyện chữ trong lúc
rảnh rang. Những chữ hoc
thu thâp
đươc
trong sách vở , trên mỗi người ... luôn luôn
đươc
đem chùi rử a , nung nấu ... có khi bị biến chế thành nghia
riêng tiếp tháp với
những chữ không thông dụng thành những “con la” đủ sức xứng vóc chở những ý tưởng riêng biêṭ của ho ̣. Họ rèn luyện , trau chuốt rồi để đó . Đến khi ho ̣làm thơ thi
đem ra dùng như móc tiền trong túi , chớ đâu cần “chay
ngươc
chay
xuôi ” có lắm
khi “bần ư nhất tư” , có lắm khi “nghĩ một chữ nát một khúc ruột” thật nhưng “đo
đâu phải để trang sứ c cho câu thơ , mà chính để diễn tả cho đúng với ý nghĩa mình
muốn diên
tả.
Huống nữa thơ ̣ làm đồ ngà phải thi ết phải tha, thơ ̣ mài ngoc phaỉ trać phaỉ ma .
Kẻ làm thơ hóa lại kém công phu hơn thợ ngà, thơ ̣ ngoc sao ?
Nếu còn để cho người ta thấy rõ sư ̣ got giũa là do công phu chưa đúng mứ c ,
bút pháp chưa tinh luyện, chứ đâu phải lỗi tại sự dụng công.
Rèn chữ chuốt câu mà còn để thấy dấu rìu búa , dùng điển mà còn để thấy dấu
cắt vá thì thơ chưa có thể goi
là trác luyên
, là đẹp được” [71,tr.262].
Tiếp đến, Quách Tấn còn cho người đọc thấy được s ự dung công thật công phu
của ông khi làm thơ : “Từ khi tôi biết đươc
“chân diên
muc̣ ” của thơ , tôi làm thơ rất
công phu. Không phải công phu ở chỗ “thôi xao từ điêụ ” mà còn “công phu trong
viêc
uân
nhưỡng tâm tư” [71,tr.263].
Nhà thơ còn cho người đọc thấy rõ kinh nghiệm làm thơ là phải tìm ý , có ý rồi
cần nghiền ngâm
để có cảm xúc , khi cảm xúc , ý nghĩ hòa nhập thì cần nuôi dưỡng
để tạo tứ thơ . Có tứ thơ , đó chính là lúc bừ ng vỡ . Ông viết : “Khi lòng rung động
trước cảnh , khi trí nghĩ đươc ý mới , không bao giờ lam̀ thơ ngay . Tôi để cho mối
cảm xúc, cho ý nghĩ thâm nhâp vaò tâm hồn . Tôi nuôi dưỡng âṕ ủ như con gà maí
ấp trứng. Chờ khi thơ cảm thơ tứ thai nghén trong t âm tưởng đã thành hình , không còn có thể nằm mãi trong vỏ trứng được nữa , thì chỉ một cái khảy nhỏ của con gà mẹ, là có ngay một con gà con ra đời” [71,tr.264].
Quách Tấn từng viết trong Lờ i Tưa
tâp
Môn
g Ngân sơn (1966): “Làm thơ cũng
như sanh con, niềm đau khổ , nỗi mừ ng vui, riêng những kẻ đã từ ng làm cha me ̣mới biết thấu. Đối với đứa con đầu lòng , người sanh con laị còn đeo thêm chút tình đăc̣ biêṭ, vì nghĩ thương cảnh khởi đầu nan” [67].
Trên đây là trình bày môt
vài quan niêm
của Quách Tấn trong viêc
làm thơ ,
trong cách dùng chữ đăṭ câu , trong viêc sử duṇ g điên̉ cố , điên̉ tích mà nhà thơ có
ghi trong hồi ký Bóng ngày qua . Rõ ràng là ông làm thơ thật khổ công , thôi xao ,
chẳng khác nào người thơ ̣ kim hoàn cham phẩm tuyêṭ mỹ.
khắc mài giũa ngà ngoc
để tao
nên tác
3.1.2. Quan niêm
củ a nhà thơ về viêc
chon
thể thơ để sá ng tá c
Quách Tấn chuyên sáng tác thể thơ Đường luật . Đây là thể thơ mà ông am hiểu
luâṭ thơ và đã tâp taǹ h lam̀ thơ khi còn ngồi trên ghế nhà trường , qua sach́ giaó khoa
Quốc văn trích diêm của Dương Quảng Hàm . Thơ Đường luâṭ laị có bát cú và tư
tuyêṭ , trong đó chia ra thất ngôn và ngũ ngôn. Ở ba tập thơ đầu Môt tấm lòng, Mùa
cổ điển , Đon
g bóng chiều , phần lớn Quách Tấn chon
thể thất ngôn bá t cú và thất
ngôn tứ tuyêt
để sáng tác . Điều này có lý do riêng của tác giả , thể hiên
quan niêm
của ông về viêc
chon
thể thơ.
Lời Tựa tập Mộng Ngân Sơn, Quách Tấn có dẫn lại lời của nhà lý luận văn
chương cổ ở Trung Quốc, ông viết: “Trong tâp
sách nổi tiếng Tùy Viên thi thoại ,
Viên Mai có day
về phép làm thơ “Trước nên tâp
làm thơ ngũ ngôn . Vì trên với
đươc
Cổ phong , dưới tiếp đươc
Cân
thể” . Nhưng riêng Quách Tấn , ông laị nghi
khác. Nhà thơ nhận thấy rằng : “Thơ Thất ngôn âm trường , thơ Ngũ ngôn âm đoản .
Môt
bên là tơ trúc , môt
bên là săng đá . Tơ trúc dễ rung cảm người nghe, săng đá dê
làm cho người nghe sanh chán ghét . Cho nên, từ lúc biết làm thơ , tôi tránh thể Ngũ ngôn. Có lẽ ở Việt Nam ta cũng ít người hâm mộ . Trong làng thơ Quốc âm từ trước
đến nay, không thấy đươc
nhiều thơ Ngũ ngôn truyền tuṇ g” [67]
Nhưng về sau, bắt đầu từ Tết năm Ấ t Dâu
(1945), nhân dip
em trai nhà thơ về
thăm nhà , hai anh em xướng hoa
thơ văn , có làm thử thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt mà
nhà thơ ngâm nga cảm thấy thích thú . Đến năm 1947, khi em trai tản cư về Ngân
Sơn, môt
xã miền núi Phú Yên , là vùng quê kháng chiến , nhớ em, tác giả làm một
bài ngũ ngôn. Tác giả “Từ ấy maṇ h dan lam̀ thơ Ngũ ngôn , và chuyên về thơ Tuyệt
cú” [Lờ i Tưa
tâp
Môn
g Ngân Sơn , 1966]. Qua lời Tựa, người đoc
sẽ hiểu vì sao cả
tâp
thơ Môn
g Ngân sơn có 135 bài, và tất cả đều là thơ ngũ ngôn tứ tuyệt.
Điều đó cho thấy , nếu ban đầu Quách Tấn chon
thể thơ thất ngôn (bát cú hoăc
tứ tuyêṭ ) để sáng tác , thì từ năm 1947 về sau, bên caṇ h thể thất ngôn, ông còn dùng
thể ngũ ngôn tứ tuyệt để sáng tác. Thi thoảng, người đoc lục bát biến thể, dù các thể này, ông rất ít khi sử duṇ g.
còn bắt găp
thể lục bát hay
Tóm lại , Quách Tấn là môt “bà me ̣khó tính” khi “mang năṇ g đẻ đau ra đứ a
con tinh thần” và ông đã “chăm chút chăm sóc đứ a con ấy từ ng ly từ ng tý môṭ ” [71]. Nhờ thế mà những vần thơ của Quách Tấn mang dấu ấn riêng , phong cách riêng của ông“giữa cái bộn bề cuộc sống hiện đại vẫn còn thấy không khí cổ điển”
và trong không khí cổ điển thơ của ông vân
mang đăc
trưng bút pháp hiên
đai ,
không thể nào nhầm lân
với bất kỳ môt
nhà thơ nào khác trước đó hoăc
cùng t hời.
3.1.3. Những thể thơ được Quách Tấn sử dụng trong các tập thơ
Thể thơ mà Quách Tấn thường sử duṇ g nhiều hơn cả là thơ Đường luâṭ: thất ngôn bát cú ; thất ngôn tứ tuyêṭ , ngũ ngôn tứ tuyệt mà ở trên luận văn có giới thiệu