Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Thực trạng của ngành chăn nuôi gà trên thế giới và ở Việt Nam
1.1.1. Tình hình sản xuất của ngành chăn nuôi gà
1.1.1.1. Tình hình sản xuất ngành chăn nuôi gà thế giới
Chăn nuôi gia cầm cũng như thương mại các sản phẩm gia cầm trên thế giới phát triển mạnh trong những năm qua. Sản lượng thịt gia cầm tăng nhanh hơn sản lượng thịt bò và thịt lợn. Năm 2009, sản lượng thịt gà broiler thế giới đạt 73,6 triệu tấn; thịt lợn là 100,6 triệu tấn; thịt bò và thịt bê là 57,1 triệu tấn [240]. Đến tháng 4 năm 2013, sản lượng thịt gà broiler đã tăng lên 79% so với thịt lợn và 147% so với thịt bò và thịt bê. Từ năm 2009 đến 4/2013, sản lượng thịt gà thế giới tăng 14,9%; trong khi đó sản lượng thịt lợn, thịt bò và bê chỉ tăng lần lượt là 6,80% và 0,61% (bảng 1.1).
Bảng 1.1. Sản lượng các loại thịt chính trên thế giới giai đoạn 2009-2013
(ĐVT: 1000 tấn)
Thịt gà broiler | Thịt lợn | Thịt bò và bê | |
2009 | 73.612 | 100.567 | 57.180 |
2010 | 77.893 | 102.968 | 57.303 |
2011 | 80.811 | 102.015 | 57.058 |
2012 | 82.774 | 105.519 | 57.257 |
4/2013 | 84.610 | 107.412 | 57.527 |
Thay đổi 2009/2013 | 14,9% | 6,80% | 0,61% |
Có thể bạn quan tâm!
- Xác định giá trị năng lượng trao đổi có hiệu chỉnh nitơ men, tỉ lệ tiêu hóa hồi tràng các chất dinh dưỡng của một số loại thức ăn và ứng dụng trong thiết lập khẩu phần nuôi gà thịt - 1
- Xác định giá trị năng lượng trao đổi có hiệu chỉnh nitơ men, tỉ lệ tiêu hóa hồi tràng các chất dinh dưỡng của một số loại thức ăn và ứng dụng trong thiết lập khẩu phần nuôi gà thịt - 2
- Thức Ăn Và Dinh Dưỡng Trong Hệ Thống Chăn Nuôi Quảng Canh
- Mối Quan Hệ Giữa Tỉ Lệ Tiêu Hóa Biểu Kiến Và Lượng Amino Acid Ăn Vào
- Thử Nghiệm Sinh Vật Học Gián Tiếp
Xem toàn bộ 166 trang tài liệu này.
Thịt gà được tính theo khối lượng thịt đã được sơ chế; Thịt lợn, thịt bò và thịt bê được tính theo khối lượng thịt xẻ
(Nguồn: [240])
Đến tháng 4 năm 2013, sản lượng thịt gà broiler thế giới là 84,6 triệu tấn, tăng 1,1 triệu tấn so với sản lượng ước tính sẽ đạt vào tháng 10/2013, trong đó tăng trưởng chính ở 3 quốc gia là Mỹ, Thái Lan và Nga (bảng 1.2). Xuất khẩu thịt gà broiler thế giới đạt 10,3 triệu tấn, tăng 262 nghìn tấn so với dự báo, phần lớn là do sự đóng góp của Mỹ, Thổ Nhĩ Kì và Ukraina [240]. Tổng sản lượng thịt gia cầm của một số quốc gia và thế giới được trình bày ở bảng 1.2.
Bảng 1.2. Tổng sản lượng thịt gà broiler thế giới từ 2009 đến tháng 4/2013
(ĐVT: triệu tấn)
2009 | 2010 | 2011 | 2012 | 10/2013* | 4/2013 | |
Mỹ | 15.935 | 16.563 | 16.694 | 16.621 | 16.341 | 17.012 |
Trung Quốc | 12.100 | 12.550 | 13.200 | 13.700 | 14.100 | 14.050 |
Brasil | 11.023 | 12.312 | 12.863 | 12.645 | 13.005 | 12.835 |
EU-27 | 8.756 | 9.202 | 9.320 | 9.510 | 9.580 | 9.550 |
Ấn Độ | 2.550 | 2.650 | 2.900 | 3.160 | 3.420 | 3.420 |
Mexico | 2.781 | 2.822 | 2.906 | 2.958 | 2.950 | 2.975 |
Nga | 2.060 | 2.310 | 2.575 | 2.830 | 2.850 | 2.950 |
Argentina | 1.500 | 1.680 | 1.770 | 1.936 | 2.022 | 2.022 |
Thổ Nhĩ Kì | 1.250 | 1.430 | 1.614 | 1.687 | 1.700 | 1.700 |
Thái Lan | 1.200 | 1.280 | 1.350 | 1.550 | 1.450 | 1.560 |
Indonesia | 1.409 | 1.465 | 1.515 | 1.540 | 1.550 | 1.550 |
Khác | 13.048 | 13.629 | 14.104 | 14.637 | 14.575 | 14.986 |
Tổng | 73.612 | 77.893 | 80.811 | 82.774 | 83.543 | 84.610 |
*: dự báo
(Nguồn: [240])
Tổng sản lượng thịt gà tây của thế giới chỉ chiếm khoảng 6,6% so với tổng sản lượng thịt gà broiler. Theo thống kê của USDA (2013), tổng sản lượng thịt gà tây của thế giới năm 2012 là 5.498 triệu tấn. Phần lớn thịt gà tây được sản xuất ở các nước Mỹ (2.675 triệu tấn), EU-27 (2.020 triệu tấn), Brasil (510 triệu tấn) [240] (bảng 1.3). Sản lượng thịt gà tây nhập khẩu cao nhất là ở Mexico với 170 triệu tấn vào năm 2012, chiếm 46,96% tổng sản lượng thịt gà tây xuất khẩu thế giới. Trong khi đó, Mỹ đứng đầu về xuất khẩu thịt gà tây với tổng lượng xuất khẩu là 336 triệu tấn vào năm 2012, chiếm 50,37% tổng lượng thịt gà tây xuất khẩu của thế giới [240].
Về sản lượng trứng gia cầm, từ năm 2000 đến 2010, sản lượng trứng gia cầm thế giới tăng 2,5% mỗi năm, từ 51 triệu tấn đến 63,8 triệu tấn (bảng 1.4). Tốc độ tăng trưởng hằng năm về sản lượng trứng gia cầm khác nhau theo từng khu vực. Tốc độ tăng trưởng về sản xuất trứng gia cầm ở châu Phi vào khoảng 4,7% mỗi năm; ở châu Á là 2,9%/năm; ở châu Mỹ là 2,3%. Sản lượng trứng gia cầm của châu Đại Dương chiếm tỉ lệ thấp nhất so với các khu vực khác trên thế giới, tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2000-2010 là 5,0%/năm. Ở châu Âu, tốc độ tăng trưởng về sản lượng trứng gia cầm là thấp nhất (1,1%/năm).
Bảng 1.3. Tổng sản lượng thịt gà tây thế giới giai đoạn 2008-2012
(ĐVT: triệu tấn)
2008 | 2009 | 2010 | 2011 | 2012 | |
Tổng sản lượng | |||||
Mỹ | 2.796 | 2.535 | 2.527 | 2.592 | 2.675 |
EU-27 | 1.830 | 1.795 | 1.946 | 1.950 | 2.020 |
Brazil | 465 | 466 | 485 | 489 | 510 |
Canada | 180 | 167 | 159 | 160 | 165 |
Nga | 39 | 31 | 70 | 90 | 100 |
Mexico | 15 | 11 | 11 | 13 | 14 |
Nam Phi | 7 | 8 | 8 | 8 | 8 |
Trung Quốc | 5 | 5 | 6 | 6 | 6 |
Tổng | 5.337 | 5.018 | 5.212 | 5.308 | 5.498 |
(Nguồn: [240])
Bảng 1.4. Tổng sản lượng trứng gia cầm thế giới giai đoạn 2000-2010
(ĐVT: triệu tấn)
2000 | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | 2009 | 2010 | |
Châu Phi | 1,9 | 2,2 | 2,4 | 2,5 | 2,6 | 2,6 | 2,8 |
Châu Mỹ | 10,4 | 11,7 | 12,3 | 12,3 | 12,5 | 12,6 | 12,8 |
Châu Á | 29,0 | 32,6 | 33,0 | 34,5 | 36,2 | 37,2 | 37,4 |
Châu Âu | 9,5 | 9,9 | 10,1 | 10,0 | 10,2 | 10,3 | 10,5 |
Châu Đại Dương | 0,2 | 0,2 | 0,2 | 0,2 | 0,2 | 0,2 | 0,3 |
Thế giới | 51,0 | 56,6 | 57,9 | 59,6 | 61,8 | 62,8 | 63,8 |
(Nguồn: [61])
1.1.1.2. Tình hình chăn nuôi gà ở Việt Nam
Với đặc thù là một nước đang phát triển, kinh tế đang ngày càng phát triển, ngành chăn nuôi gia cầm cũng đóng góp một phần không nhỏ vào tổng thu nhập quốc dân ở Việt Nam. Sau hơn 20 năm đổi mới, ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gia cầm nói riêng đã có những bước phát triển đáng kể. Từ chỗ chăn nuôi nhỏ lẻ ở nông hộ sang trang trại quy mô lớn, chất lượng con giống và thức ăn cũng tốt hơn nhiều do đó đã mang lại hiệu quả tương đối cao. Trong những năm gần đây, số lượng đàn gia cầm của nước ta ngày càng tăng (196,1 - 286,8 triệu con từ 2000-2010) [61]. Tốc độ tăng đàn trung bình từ năm 2000 - 2003 là 9,94%/năm (bảng 1.5). Giai đoạn 2004-2008,
tổng đàn gia cầm ở nước ta giảm xuống so với năm 2003 do tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp và ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm. Số liệu thống kê ở bảng 1.5 cho thấy từ năm 2007 đến 2010, số lượng đàn gia cầm lại tăng lên nhanh chóng từ 226,0 triệu con năm 2007 đến 286,8 triệu con vào năm 2010, tốc độ tăng trưởng đạt 7,2% so với cùng kỳ năm 2009. Bên cạnh đó, số lượng các loại sản phẩm mà ngành gia cầm mang lại cũng chiếm vị trí không nhỏ (bảng 1.5).
Bảng 1.5. Số lượng đàn gia cầm và sản lượng thịt gia cầm ở Việt Nam giai đoạn 2000-2010
Số lượng gia cầm (triệu con) | Sản lượng thịt gia cầm hơi giết bán (nghìn tấn) | Trứng gia cầm (nghìn tấn) | |
2000 | 196,1 | 292,9 | 185,4 |
2001 | 218,1 | 308,0 | 200,5 |
2002 | 233,3 | 338,4 | 226,5 |
2003 | 254,6 | 372,7 | 242,6 |
2004 | 218,2 | 316,4 | 197,0 |
2005 | 219,9 | 321,9 | 188,0 |
2006 | 214,6 | 344,4 | 198,5 |
2007 | 226,0 | 358,8 | 223,0 |
2008 | 248,3 | 448,2 | 247,0 |
2009 | 280,2 | 518,3 | 390,0 |
2010 | 286,8 | 531,4 | 326,1 |
(Nguồn: [61]) Theo Tổng cục Thống kê (2012), năm 2011 tổng đàn gia cầm cả nước là 322,569 triệu con [10]. Sự phân bố của đàn gia cầm là không đồng đều giữa các vùng. Đàn gia cầm chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng sông Hồng (83,165 triệu con); tiếp theo là Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (68,726 triệu con), đồng bằng sông Cửu Long (66,361 triệu con), Trung du và miền núi phía Bắc (65,927 triệu
con), vùng Đông Nam Bộ (24,121 triệu con) và Tây Nguyên (14,248 triệu con) [10].
Thời điểm 01/10/2012 đàn gia cầm có 308,5 triệu con, bằng 95,63% so với 01/10/2011, trong đó đàn gà có 223,7 triệu con, giảm 3,85% [10]. Nguyên nhân của việc giảm đàn gia cầm chủ yếu là do giá bán thấp trong khi chi phí đầu vào luôn ở mức cao, và lượng gia cầm nhập vào Việt Nam theo đường chính ngạch và tiểu ngạch với giá bán thấp hơn so với giá trong nước. Mặc dù
đàn gia cầm giảm, sản lượng thịt gia cầm hơi giết bán vào năm 2012 tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước [10].
Trong 6 tháng đầu năm 2013, ngành chăn nuôi gà ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn, giá gà sống tại các trang trại chăn nuôi giảm mạnh [1]. Nguyên nhân của việc giảm giá này là nguồn cung tăng mạnh trong khi sức tiêu thụ giảm, gia cầm nhập lậu vào Việt Nam được bán với giá rất thấp, và thông tin dịch cúm A/H7N9 đe dọa
[1] khiến phần lớn người tiêu dùng không dám mua thịt gia cầm. Đến năm 2015, các sản phẩm thịt lợn, thịt gà, trứng ở nước ta sẽ không được bảo hộ thuế, chính sách trợ cấp trong cam kết tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) [43]. Khi chính sách bảo hộ bị dỡ bỏ, sản phẩm thịt lợn, thịt gà, trứng của Thái Lan, Indonesia hay Malaysia có thể xuất khẩu tự do vào thị trường Việt Nam mà không qua bất cứ rào cản nào. Với thực trạng con giống, công nghệ, quy mô đàn, giá thành… như hiện nay, chắc chắn sản phẩm chăn nuôi trong nước khó cạnh tranh với các nước trong khu vực. Ngay cả khi bỏ qua cạnh tranh đến từ AFTA, nhiều năm trở lại đây ngành chăn nuôi trong nước cũng đã phải đối mặt sức ép rất lớn từ sản phẩm nhập khẩu ngoài khu vực như Mỹ, Brazil, EU… [238], [239]. Chính vì vậy, ngành chăn nuôi gia cầm nói chung hay chăn nuôi gà nói riêng sẽ còn gặp nhiều thách thức trong thời gian tới. Tuy vậy, trong thời gian gần đây, ngành chăn nuôi đang có dấu hiệu phục hồi. Giá bán sản phẩm tăng kết hợp với thời gian quay vòng ngắn đã kích thích nhiều hộ chăn nuôi trước đây bỏ trống chuồng bắt đầu chăn nuôi trở lại. Theo dự báo của USDA (2012), tổng lượng thịt gia cầm (bao gồm gà thịt và gà tây) tiêu thụ ở Việt Nam giai đoạn 2012-2021 sẽ tăng 37% [239]. Tổng sản lượng thịt gia cầm sẽ tăng 27%. Trong khi đó tổng lượng thịt gia cầm nhập khẩu vào Việt Nam sẽ tăng khoảng 49% [239].
1.1.2. Các phương thức chăn nuôi
Phương thức chăn nuôi hiện nay của các nước trên thế giới được chia thành ba hình thức cơ bản, đó là (1) chăn nuôi thâm canh công nghiệp, (2) chăn nuôi bán thâm canh, (3) chăn nuôi nông hộ quy mô nhỏ và quảng canh [59]. Hiện nay ở Việt Nam đang tồn tại cả 3 phương thức chăn nuôi gà nói trên [60]. Ngành gia cầm chăn thả nhỏ lẻ chiếm 2/3 sản lượng và 1/2 thị trường trực tiếp và có tầm quan trọng rất lớn trong chiến lược sinh kế của người dân nông thôn [2].
1.1.2.1. Phương thức chăn nuôi quảng canh
Đây là phương thức chăn nuôi có từ lâu đời và vẫn tồn tại phát triển ở hầu khắp vùng nông thôn Việt Nam [60]. Mỗi hộ chăn nuôi có khoảng 50 con gà, chủ yếu là các giống địa phương [49], [236]. Giống gà chủ yếu được nuôi trong hình thức này là gà Ri, có khối lượng trung bình 1,2-1,6 kg lúc 6 tháng tuổi, sản lượng trứng là 45-60 quả/mái/năm [236]. Gà tự ấp và nuôi con; tuy nhiên, đôi khi gà con cũng được mua từ các chợ địa phương để bổ sung vào đàn [236].
Đặc điểm của phương thức chăn nuôi này là chi phí đầu vào và đầu ra thấp [236]. Đàn gia cầm được thả rông trong sân hoặc vườn, tự tìm kiếm thức ăn và tận dụng phụ phẩm nông nghiệp, rác thải nhà bếp [49], [236]. Lượng thức ăn sử dụng để nuôi gà không tập trung vào hiệu quả sản xuất mà phụ thuộc vào các loại thức ăn hạt sẵn có và nhu cầu ăn của gia cầm [60], [236]. Thông thường, gia cầm được thả và cho ăn vào buổi sáng, cho ăn lại vào buổi tối và nhốt trong chuồng suốt đêm [60], [236]. Chuồng trại sử dụng trong hệ thống nuôi này có kết cấu đơn giản, vườn thả không có hàng rào bao che [119], [236]. Thời gian nuôi kéo dài [49]. Mặt khác, do ít có sự đầu tư về lao động và tài chính, nguồn thu nhập từ hình thức chăn nuôi gia cầm này chỉ được xem là nguồn thu phụ trong hộ gia đình [236]. Do thả tự do, môi trường chăn nuôi không đảm bảo vệ sinh dịch tễ khiến đàn gà dễ mắc bệnh, dễ chết nóng, chết rét, tỉ lệ nuôi sống thấp, hiệu quả kinh tế không cao [236]. Tuy vậy, phương thức chăn nuôi này có những ưu điểm nhất định như phù hợp với điều kiện tự nhiên và kinh tế của hộ nông dân; cung cấp thức ăn động vật cho người dân nông thôn và góp phần giảm suy dinh dưỡng cộng đồng; thỏa mãn nhu cầu văn hóa tâm linh của Việt Nam [151]. Mặc dù chưa đạt năng suất cao và hiệu quả kinh tế thu được chưa lớn, song hầu hết số hộ lao động nông nghiệp thường áp dụng phương thức chăn nuôi này [49].
1.1.2.2. Phương thức chăn nuôi bán thâm canh
Đây là phương thức chăn nuôi có sự kết hợp những kinh nghiệm chăn nuôi truyền thống và kỹ thuật nuôi dưỡng tiên tiến [236]. Điều đó có nghĩa là chế độ dinh dưỡng và quá trình phòng bệnh cho đàn gà đã được coi trọng hơn [236]. Mục tiêu của chăn nuôi mang đậm tính sản xuất hàng hóa, chứ không thuần túy là sản xuất tự
cung tự cấp [100]. Gà được nuôi từng lứa, mỗi lứa từ 200 – 500 con hoặc có khi lên đến 1.000 con [119]. Các trang trại khác nhau về quy mô, đầu tư kỹ thuật và sự nối kết với thị trường [49]. Bên cạnh các nguồn thức ăn sẵn có, đàn gà cũng có thể được nuôi bằng thức ăn công nghiệp [236]. Trong phương thức chăn nuôi bán thâm canh, tỉ lệ nuôi sống và hiệu quả chăn nuôi cao; thời gian nuôi rút ngắn, vòng quay vốn nhanh hơn so với chăn nuôi nhỏ lẻ trong nông hộ [119], [236].
Từ năm 1990, một số trang trại vùng ven đô thị ở Việt Nam đã dịch chuyển từ chăn nuôi quảng canh sang chăn nuôi bán thâm canh [60]. Những năm gần đây phương thức chăn nuôi này đã và đang được áp dụng rộng rãi tại các vùng đồng bằng, trung du, ven đô thị trong các nông hộ có điều kiện về vốn và diện tích vườn tương đối lớn [119]. Hàng ngàn trang trại đã được xây dựng với quy mô chăn nuôi từ 500 – 2.000 con/lứa và số lứa nuôi trong năm trung bình từ 1-3 lứa [119]. Các giống gà lông màu nhập nội như Tam Hoàng, Lương Phượng, Kabir, gà lai đang được sử dụng nhiều cho phương thức chăn nuôi này [49], [119].
1.1.2.3. Phương thức chăn nuôi thâm canh công nghiệp
Chăn nuôi thâm canh công nghiệp bắt đầu chính thức hình thành ở nước ta từ năm 1974 [119]. Tuy nhiên, nó chỉ thực sự đi vào phát triển trong khoảng hơn 10 năm trở lại đây [35]. Đặc điểm của phương thức chăn nuôi thâm canh công nghiệp là vốn đầu tư cao, quản lý tốt và thời gian nuôi ngắn, gà được nuôi nhốt với quy mô đàn từ hơn 2.000 – 1000.000 con [35], [60]. Hệ thống chuồng trại được kiểm soát bán tự động hoặc tự động trong việc cung cấp thức ăn, nước uống; kiểm soát độ ẩm, hệ thống thông gió, chiếu sáng và quản lý chất thải [35]. Điểm đáng chú ý trong phương thức nuôi gà thâm canh công nghiệp ở Việt Nam là hệ thống sản xuất giống các cấp không đồng bộ, các doanh nghiệp nhà nước và các công ty nước ngoài chỉ tập trung nhập khẩu trứng hoặc con giống thương phẩm 1 ngày tuổi từ đàn bố mẹ ở nước ngoài [119]. Việc đầu tư xây dựng và sản xuất giống ông bà ít được quan tâm, trung bình nước ta phải nhập
1.000.000 con gà giống bố mẹ và 4.000 – 5.000 con gà giống ông bà mỗi năm để sản xuất gà thương phẩm [60]. Nhìn chung, chăn nuôi gà theo phương thức thâm canh công nghiệp ở nước ta vẫn còn trong tình trạng thấp kém cả về trình độ công nghệ và năng suất chăn nuôi so với các nước trong khu vực và trên thế giới [119].
1.1.3. Hệ thống sản xuất giống
1.1.3.1. Hệ thống nhân giống
Công tác giống của các quốc gia đều được tổ chức theo sơ đồ hình tháp, bao gồm: đỉnh tháp với số lượng vật nuôi ít nhất là đàn hạt nhân, giữa tháp với số lượng vật nuôi lớn hơn là đàn nhân giống, đáy tháp với số lượng vật nuôi đông nhất là đàn thương phẩm [149]. Trong sản xuất chăn nuôi hiện nay tồn tại hai hệ thống có tên là hạt nhân khép kín và hạt nhân mở [80], [85]. Trong hệ thống hạt nhân khép kín, chỉ có một chiều chuyển dịch gen từ đỉnh tháp xuống đáy tháp [80], [85]. Trong hệ thống nhân giống hạt nhân mở, dòng dịch chuyển gen còn có thể di chuyển từ lớp thấp hơn lên lớp cao hơn [80], [85]. So với hệ thống hạt nhân khép kín, hệ thống hạt nhân mở đạt được tiến bộ di truyền nhanh hơn, giảm được khả năng giao phối cận huyết [198].
1.1.3.2. Hệ thống sản xuất con lai
Các hệ thống sản xuất con lai cũng được tổ chức theo hệ thống sơ đồ hình tháp nhằm thực hiện các công thức lai giữa nhiều dòng, giống khác nhau. Hệ thống sản xuất con lai được tổ chức như sau [120]:
- Đàn cụ-kỵ: nhân các dòng, giống thuần.
- Đàn ông-bà: lai giữa hai dòng, giống thuần với nhau tạo ra đời ông bà.
- Đàn bố-mẹ: lai giữa hai đàn bố-mẹ tạo ra đời con là con lai giữa 3 hoặc 4 dòng giống khác nhau.
- Đàn thương phẩm: các con lai giữa 3 hoặc 4 dòng giống khác nhau được nuôi để sản xuất sản phẩm cuối cùng (thịt, trứng hoặc sữa).
Hệ thống sản xuất này kết hợp giữa chọn lọc ở các dòng giống thuần với lai giống ở các đời lai tiếp theo.
1.1.3.3. Các giống gà ở Việt Nam
Các giống gà nội
Việt Nam có nhiều giống gà nội được chọn lọc thuần hóa từ lâu đời, chẳng hạn như gà Ri, gà Mía, gà Đông Tảo, gà Tàu Vàng [60]. Ngoài ra, Việt Nam còn sở hữu 28 giống gà địa phương với các đặc điểm di truyền khác nhau [60]. Nhiều giống gà đang được bảo tồn và phát triển, chẳng hạn như gà Ác, gà H’Mông (Tieu