Vốn Xã Hội Cá Nhân Với Thu Nhập Và Đa Dạng Hóa Thu Nhập Của Hgđ


Giả thuyết H1: Vốn xã hội cá nhân tác động cùng chiều đến sự hài lòng trong công việc của người lao động, cụ thể là:

H1a: Lòng tin (TRU) có tác động cùng chiều (+) đến sự hài lòng về việc làm(SASJ).

H1b: Mức độ chia sẻ, tâm sự (COS) có tác động cùng chiều (+) đến sự hài lòng về việc làm (SASJ).

H1c: Nhận sự giúp đỡ từ người khác (REH) có tác động cùng chiều (+) đến sự hài lòng về việc làm (SASJ).

H1d: Giúp đỡ người khác qua hành động cho mượn tiền (BOR) có tác động cùng chiều (+) đến sự hài lòng về việc làm (SASJ).

Giả thuyết H2: Vốn xã hội cá nhân tác động cùng chiều đến sự hài lòng với thu nhập nhận được từ việc làm của người lao động, cụ thể là:

H2a: Lòng tin (TRU) có tác động cùng chiều (+) đến sự hài lòng với thu nhập nhận được từ việc làm (SASI).

H2b: Mức độ chia sẻ, tâm sự (COS) có tác động cùng chiều (+) đến sự hài lòng với thu nhập nhận được từ việc làm (SASI).

H2c: Nhận sự giúp đỡ từ người khác (REH) có tác động cùng chiều (+) đến sự hài lòng với thu nhập nhận được từ việc làm (SASI).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 222 trang tài liệu này.

H2d: Giúp đỡ người khác qua hành động cho mượn tiền (BOR) có tác động cùng chiều (+) đến sự hài lòng với thu nhập nhận được từ việc làm (SASI).

2.5.2.2. Vốn xã hội cá nhân với thu nhập và đa dạng hóa thu nhập của HGĐ

Vốn xã hội tác động đến việc làm và thu nhập của hộ gia đình - 13

Việc làm hay thu nhập của một cá nhân trong HGĐ có ảnh hưởng ít nhiều đến thu nhập và ĐDHTN của HGĐ vì mỗi người là một thành phần của HGĐ. Mỗi cá nhân có thể dựa vào MQH của gia đình để tìm kiếm việc làm và ngược lại, việc làm của cá nhân đóng góp một phần trong thu nhập của HGĐ (Beaulieu & Hartless, 2001). Đặc điểm của HGĐ nhất là đặc điểm của chủ hộ, lao động chính trong hộ có ảnh hưởng đến nghề nghiệp, việc làm của các thành viên còn lại trong hộ (Lin, Ensel & Vaughn, 1981; Rumberger, 1983; Corcoran & cộng sự, 1990).

Lý thuyết VXH của Granovetter (1973, 1995), Bourdieu (1986), Putnam (2000) đã chứng minh, MQH gia đình, dòng họ (MQH mạnh, MQH gắn bó) có tác động cùng chiều đến việc làm và thu nhập của cá nhân. Các MQH của các thành viên trong gia đình


(nhất là chủ hộ) tạo lợi thế cho mỗi thành viên trong gia đình có thể có việc làm với mức tiền lương hay thu nhập cao (Sabatini, 2008; Matthews, Pendakur & Young, 2009; Pellizzari, 2010). VXH của cá nhân tác động đến thu nhập cho kết quả không đồng nhất (Brisson & Usher, 2005). Nghiên cứu của Narayan & Pritchett (1999), Yusuf (2008), Growiec & Growiec (2016), Teame & Woldu (2016), Yodo & Yano (2017) chứng minh VXH cá nhân có tác động tích cực đến thu nhập của HGĐ. Trong đó, VXH gắn bó (gia đình, họ hàng) ít ảnh hưởng hơn VXH bắc cầu (Zhang, Anderson & Zhan, 2011). Một số nghiên cứu cho kết quả ngược lại (Caliendo, Schmidl & Uhlendorff, 2010; Võ Thành Khởi, 2015; Growiec & Growiec, 2016).

Lòng tin, sự giúp đỡ lẫn nhau giữa cá nhân với họ hàng, làng xóm, bạn bè, đồng nghiệp được khẳng định là có tác động tích cực đến thu nhập của HGĐ thể hiện qua kết quả nghiên cứu của Helliwell & Huang (2010), Growiec & Growiec (2014), Yodo & Yano (2017). Mức độ tương tác, sự chia sẻ, tâm sự, sự hỗ trợ vật chất hay tinh thần của những người xung quanh tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân trong quá trình làm việc, cải thiện thu nhập cá nhân, từ đó góp phần nâng cao thu nhập của HGĐ (Khai & Danh, 2014; Yodo & Yano, 2017). Luận án tìm hiểu vai trò của VXH cá nhân đến thu nhập của HGĐ dựa vào lý thuyết về thu nhập của Mincer (1974) và các lý thuyết về VXH của Granovetter (1995), Bourdieu (1986), Putnam (2000) cùng với kết quả của các nghiên cứu như đã nêu trên, các giả thuyết nghiên cứu đề xuất như sau:

Giả thuyết H3: Vốn xã hội cá nhân tác động cùng chiều đến thu nhập của hộ gia đình, cụ thể là:

H3a: Lòng tin (TRU) có tác động cùng chiều (+) đến thu nhập của HGĐ (INCF). H3b: Mức độ chia sẻ, tâm sự (COS) có tác động cùng chiều (+) đến thu nhập của

HGĐ (INCF).

H3c: Nhận sự giúp đỡ từ người khác (REH) có tác động cùng chiều (+) đến thu nhập của HGĐ (INCF).

H3d: Giúp đỡ người khác qua hành động cho mượn tiền (BOR) có tác động cùng chiều (+) đến thu nhập của HGĐ (INCF).

Theo lý thuyết khung sinh kế của DFID (1999, 2001), vốn sinh kế của HGĐ có 5 loại, trong đó có vốn xã hội. VXH được xác định có thể có ảnh hưởng đến ĐDHTN của HGĐ (DFID, 2007). VXH của chủ hộ hay lao động chính trong hộ có ảnh hưởng đến


ĐDHTN của HGĐ (Nega & cộng sự, 2009; Agyeman, Asuming-Brempong & Onumah, 2014). Lòng tin cá nhân có ảnh hưởng tích cực đến ĐDHTN của HGĐ (Barr, Di Falco & Mourato, 2011). Số người có thể cho HGĐ mượn tiền giúp tăng khả năng ĐDHTN (Wuepper, Yesigat Ayenew & Sauer, 2018). Sự gắn bó của cá nhân với những người xung quanh giúp tăng khả năng ĐDHTN của HGĐ (Kien, 2011). Mối liên hệ cá nhân giúp tăng khả năng ĐDHTN của HGĐ (Johny, Wichmann & Swallow, 2017). Ngược lại, nghiên cứu của Barr, Di Falco & Mourato (2011); Baird & Gray (2014) cho rằng sự “có đi có lại” có tác động trái chiều với ĐDHTN của HGĐ. Như vậy, VXH của cá nhân (người đại diện HGĐ) có tác động đến ĐDHTN của HGĐ, tuy nhiên, tác động cùng chiều hay ngược chiều là chưa rõ ràng. Luận án tìm hiểu sự tác động của VXH của cá nhân đến ĐDHTN của HGĐ, vì thế, các giả thuyết nghiên cứu đề xuất như sau:

Giả thuyết H4: Vốn xã hội cá nhân tác động cùng chiều đến đa dạng hóa thu nhập của hộ gia đình, cụ thể là:

H4a: Lòng tin (TRU) có tác động cùng chiều (+) đến ĐDHTN của HGĐ (SID). H4b: Mức độ chia sẻ, tâm sự (COS) có tác động cùng chiều (+) đến ĐDHTN của

HGĐ (SID).

H4c: Nhận sự giúp đỡ từ người khác (REH) có tác động cùng chiều (+) đến ĐDHTN của HGĐ (SID).

H4d: Giúp đỡ người khác qua hành động cho mượn tiền (BOR) có tác động cùng chiều (+) đến ĐDHTN của HGĐ (SID).

2.5.2.3. Sự hài lòng việc làm của cá nhân với thu nhập và đa dạng hóa thu nhập của HGĐ

Theo lý thuyết của Smith (1976) việc làm và thu nhập có liên quan mật thiết với nhau. Lý thuyết về thu nhập của Mincer (1974), lý thuyết dịch chuyển lao động giữa hai khu vực của Lewis (1954) và lý thuyết thu nhập kỳ vọng của Harris & Todaro (1970) đã chứng minh, NLĐ sẽ thay đổi việc làm nếu thu nhập nhận từ việc làm không thỏa đáng với công sức đã bỏ ra, việc làm không phù hợp, sự không hài lòng về việc làm hiện tại. Người lao động có xu hướng lựa chọn một công việc mà mình yêu thích và có thu nhập cao (Lang & Majumdar, 2004). Sự hài lòng với việc làm và thu nhập hiện tại của cá nhân quyết định tình trạng việc làm hiện tại của họ, quyết định sự gắn bó với công việc (Ma


& cộng sự, 2003; Rose & cộng sự, 2006; Savari, Eslami & Monavarifard, 2013). Thu nhập của cá nhân là một phần trong thu nhập của HGĐ (Beaulieu & Hartless, 2001).

Các nghiên cứu trước liên quan đến ĐDHTN hầu hết chỉ xem xét những yếu tố liên quan đến đặc điểm HGĐ có ảnh hưởng đến ĐDHTN mà chưa nghiên cứu sâu về tình trạng việc làm hiện tại (thành công trong công việc, hài lòng về công việc và thu nhập) hay VXH. Lê Xuân Bá & cộng sự (2006) cho rằng, việc làm hiện tại quyết định ĐDH, cụ thể là nếu một cá nhân hài lòng với việc làm hiện tại đang tốt, thu nhập cao thì ĐDH thấp và ngược lại. Giesbert & Shindler (2012) qua nghiên cứu thực nghiệm ở vùng nông thôn Mozambique đã kết luận rằng, tình trạng việc làm hiện tại có tác động đến ĐDHTN, cụ thể là nếu việc làm hiện tại thuộc nông nghiệp thì ĐDHTN cao hơn phi nông nghiệp. Zhao (2014) nghiên cứu ĐDHTN của HGĐ nông thôn Trung Quốc đã kết luận rằng, việc làm của thành viên trong HGĐ và các HGĐ xung quanh có ảnh hưởng tích cực đến khả năng ĐDH của HGĐ. Luận án tìm hiểu sự ảnh hưởng của tình trạng việc làm hiện tại (SHL về việc làm và hài lòng về thu nhập của việc làm) đến thu nhập và ĐDHTN của HGĐ. Vì thế, luận án đề xuất các giả thuyết như sau:

Giả thuyết H5: Sự hài lòng về việc làm tác động đến thu nhập và đa dạng hóa thu nhập của hộ gia đình, cụ thể là:

H5a: Sự hài lòng về việc làm (SASJ) có tác động cùng chiều (+) đến thu nhập của HGĐ (INCF).

H5b: Sự hài lòng về việc làm (SASJ) tác động trái chiều (-) đến ĐDHTN của HGĐ

(SID).

Giả thuyết H6: Sự hài lòng về thu nhập nhận được việc làm hiện tại có tác

động đến thu nhập và đa dạng hóa thu nhập của hộ gia đình, cụ thể là:

H6a: Sự hài lòng về thu nhập nhận được việc làm hiện tại (SASI) có tác động cùng chiều (+) đến thu nhập của HGĐ (INCF).

H6b: Sự hài lòng về thu nhập nhận được việc làm hiện tại (SASI) tác động trái chiều (-) đến ĐDHTN của HGĐ (SID).

2.5.2.4. Vốn xã hội của hộ gia đình với thu nhập và đa dạng hóa thu nhập của HGĐ

Bốn biến: HGĐ tham gia tổ chức Đảng, Nhà nước (NPART), HGĐ tham gia vào các tổ chức CTXH (NPOLO), HGĐ tham gia vào tổ chức XH nghề nghiệp (NPROO),


HGĐ tham gia vào tổ chức hội tự nguyện (NVOLO) đều là những biến đưa vào mô hình dựa theo lý thuyết của Putnam (2000), Burt (2001), Alder & Kwon (2002). Các biến này thể hiện VXH theo khía cạnh cấu trúc.

Putnam (2000), Morrone, Tontoranelli & Ranuzzi (2009), Christoforou & Davis (2014) nhận định rằng, VXH thể hiện qua lòng tin vào các chính sách của chính quyền địa phương, sự tham gia vào các TCCT, hoạt động của TCCT… Những cá nhân sở hữu VXH này thường có quyền truy cập nguồn thông tin và nguồn lực lớn hơn (Nannicini & cộng sự, 2013). VXH kết nối (theo nhóm TCCT) thể hiện rõ trong lý thuyết của Woolcock & Narayan (2000). Theo lập luận của Woolcock (1998) và Woolcock & Narayan (2000), TCCT có tầm quan trọng và sức ảnh hưởng mạnh đến sự kết nối XH (của gia đình, của cộng đồng), sự hành động vì lợi ích chung. Park & Subramanian (2012) cho rằng, các cá nhân có địa vị XH cao, uy tín cao thường có MQH tốt với các TCCT, điều này giúp cải thiện thu nhập cá nhân. Theo Maloney, Smith, & Stoker (2000), Knack (2003), tác động của VXH tùy thuộc vào mục tiêu và hoạt động của từng tổ chức mà các thành viên tham gia. Theo Alberto & Paola (2010), MQH gia đình ảnh hưởng đến tình trạng kinh tế của HGĐ. Zhang, Anderson & Zhan (2011), Bekkers và cộng sự (2012) kết luận rằng, tham gia TCCT (Đảng, Đoàn) không ảnh hưởng đến thu nhập. Trái với Bekkers và cộng sự (2012), Vo (2018) kết luận rằng, HGĐ có thành viên tham gia các TCCT (Đảng, đoàn, HPN, HND) giúp gia tăng mức tiết kiệm của HGĐ và giúp giảm nghèo. Đồng thời, việc tham gia vào các tổ chức Đảng, đoàn thể giúp gia tăng khả năng ĐDHTN của HGĐ (Schwarze & Zeller, 2005; Khai & Danh, 2014). Dựa vào lý thuyết của Putnam (2000), Burt (2001), Alder & Kwon (2002) và kết quả một số nghiên cứu nêu trên, luận án đề xuất các giả thuyết nghiên cứu như sau:

H7.1: HGĐ tham gia vào tổ chức Đảng, Nhà nước (NPART) có tác động cùng chiều (+) đến thu nhập của HGĐ (INCF).

H8.1: HGĐ tham gia vào tổ chức Đảng, Nhà nước (NPART) có tác động cùng chiều (+) đến ĐDHTN của HGĐ (SID).

HGĐ tham gia vào tổ chức CTXH (NPOLO) được đề cập trong một số nghiên cứu trước liên quan đến thu nhập của HGĐ. Tuy nhiên, kết quả của các nghiên cứu trước cũng không giống nhau, cụ thể là: Bekkers và cộng sự (2012) cho rằng, cá nhân có tham gia TCCT hay không đều không ảnh hưởng đến thu nhập. Nghiên cứu của Võ Thành


Khởi (2015), Nguyễn Kim Phước & Phạm Tấn Hòa (2015), Phạm Mỹ Duyên (2020) đã kết luận rằng, việc tham gia TCCTXH tác động tích cực đến thu nhập HGĐ. Carol Newman, Finn Tarp & Lưu Đức Khải (2012), Vo (2018) kết luận rằng, tiền tiết kiệm của HGĐ tăng lên nhờ có thành viên của HPN, HND. Vo (2018) việc tham gia vào các tổ chức địa phương (HND, HPN) có thể làm giảm tỷ lệ nghèo của HGĐ. Zhang, Anderson & Zhan (2011) không tìm thấy liên hệ giữa việc tham gia vào các tổ chức với thu nhập. Theo Huỳnh Phẩm Dũng Phát & Kim Hải Vân (2019), HGĐ có MQH tốt với TCCTXH giúp cải thiện kinh tế HGĐ, tăng ĐDH nhờ các TCCTXH hỗ trợ khi khó khăn, chia sẻ thông tin, kiến thức và cho vay tiền để phát triển kinh tế gia đình. Tham gia vào các TCCTXH giúp tăng khả năng ĐDHTN của HGĐ (Schwarze & Zeller, 2005; Nega & cộng sự, 2009; Khai & Danh, 2014). Với kỳ vọng là VXH theo khía cạnh cấu trúc có tác động tích cực đến thu nhập và ĐDHTN của HGĐ, luận án đưa ra các giả thuyết nghiên cứu như sau:

H7.2: HGĐ tham gia vào tổ chức chính trị - xã hội (NPOLO) có tác động cùng chiều (+) đến thu nhập của HGĐ (INCF).

H8.2: HGĐ tham gia vào tổ chức chính trị - xã hội (NPOLO) có tác động cùng chiều (+) đến ĐDHTN của HGĐ (SID).

Vai trò của mạng lưới xã hội (các TCCT, hội nhóm, hiệp hội nghề nghiệp) được nêu rõ trong lý thuyết của Putnam (2000), Burt (2001) và Lin (2001). VXH cấu trúc có ảnh hưởng nhất định đến yếu tố kinh tế của cá nhân, HGĐ. Trong các nghiên cứu trước về khía cạnh thu nhập hay ĐDHTN của HGĐ, biến “HGĐ tham gia vào TCXH nghề nghiệp” (NPROO) chưa được nhiều nghiên cứu quan tâm. Đồng thời, kết quả của các nghiên cứu cũng chưa thống nhất. Các nghiên cứu trước đo biến này bằng biến giả (có/không). Nghiên cứu của Wolz, Fritzsch & Reinsberg (2005), Yusuf (2008), Yodo & Yano (2017), Châu Ngọc Hòe & Nguyễn Hoàng Yến (2020) đã cung cấp bằng chứng cho thấy, tham gia vào tổ chức nghề nghiệp giúp tăng thu nhập. Nghiên cứu của Maloney, Smith, & Stoker (2000), Knack (2003), Kien (2011) kết luận rằng, HGĐ có tham gia vào các tổ chức hiệp hội hay không đều không ảnh hưởng đến thu nhập hay ĐDHTN của HGĐ. Daud & cộng sự (2017) kết luận rằng, VXH (số lần tiếp xúc với đại lý khuyến nông) có tác động tích cực đáng kể đến ĐDHTN của nông dân. Barr, Di Falco & Mourato (2011) cho rằng, việc HGĐ có là thành viên TCXHNN hay không đều không ảnh hưởng


đến ĐDHTN của HGĐ. Nega & cộng sự (2009) khẳng định rằng, HGĐ có tham gia TCXH giúp tăng khả năng ĐDHTN. Luận án tìm hiểu sự tác động của VXH theo khía cạnh cấu trúc đến thu nhập và ĐDHTN của HGĐ, vì thế, các giả thuyết được đề xuất như sau:

H7.3: HGĐ tham gia vào tổ chức xã hội nghề nghiệp (NPROO) có tác động cùng chiều (+) đến thu nhập của HGĐ (INCF).

H8.3: HGĐ tham gia vào tổ chức xã hội nghề nghiệp (NPROO) có tác động cùng chiều (+) đến ĐDHTN của HGĐ (SID).

HGĐ tham gia vào tổ chức hội tự nguyện (NVOLO) là một biến VXH theo khía cạnh cấu trúc dựa theo Putnam (2000), Lin (2001), Alder & Kwon (2002). Các nghiên cứu trước có nghiên cứu về các tổ chức tự nguyện (TCTN) với thu nhập, bất bình đẳng thu nhập, việc làm, sự giàu có (thịnh vượng kinh tế) cho kết quả không thống nhất, ví dụ như: Sabatini (2008) nhận định rằng, tham gia các TCTN không ảnh hưởng đến sự giàu có của HGĐ còn Zhang (2010) thì cho rằng, tham gia vào các TCTN có ảnh hưởng tích cực đến sự thịnh vượng kinh tế của HGĐ trong tương lai. Park & Subramanian (2012), Yodo & Yano (2017) kết luận rằng, HGĐ có tham gia TCTN giúp giảm bất bình đẳng thu nhập. Bekkers & cộng sự (2012) cho rằng, tham gia TCTN giúp cải thiện thu nhập cá nhân. Growiec & Growiec (2016) tham gia trong các TCTN không tìm thấy dấu hiệu ảnh hưởng đến thu nhập. Elilis (2000) kết luận là mạng lưới các hiệp hội có ảnh hưởng đến ĐDHTN của HGĐ. Trong phạm vi nghiên cứu của luận án này, VXH được kỳ vọng giúp nâng cao thu nhập và tác động tích cực đến ĐDHTN của HGĐ. Vì thế, giả thuyết được đề xuất như sau:

H7.4: HGĐ tham gia vào tổ chức hội tự nguyện (NVOLO) có tác động cùng chiều (+) đến thu nhập của HGĐ (INCF).

H8.4: HGĐ tham gia vào tổ chức hội tự nguyện (NVOLO) có tác động cùng chiều (+) đến ĐDHTN của HGĐ (SID).

Bốn biến: HGĐ có thể mượn được tiền khi khó khăn (NBORM), HGĐ tham gia đóng góp vào các hoạt động cộng đồng nơi cư trú (COSTC), HGĐ tham gia đóng góp vào các tổ chức hội nhóm (COSTG) và mức độ giao tế XH của HGĐ (COSTF) đều là những biến mới đưa vào mô hình dựa theo lý thuyết của Granovetter (1995), Putnam (2000), Burt (2001), Lin (2001), Alder & Kwon (2002). Các biến này thể hiện VXH theo


khía cạnh tri nhận. Khía cạnh tri nhận thể hiện qua lòng tin, sự “có đi có lại”, sự gắn kết giữa các cá nhân với nhau, sự liên kết mạng lưới (Granovetter, 1995; Putnam, 2000; Burt, 2001; Lin, 2001; Alder & Kwon, 2002). Điều này mang lại những lợi ích về mặt vật chất, tinh thần cho người sở hữu nó (Vigoda ‐ Gadot & Talmud, 2010).

HGĐ có thể mượn được tiền khi khó khăn (NBORM) thể hiện lòng tin hay sự tin tưởng của những người xung quanh với HGĐ, đồng thời cũng thể hiện uy tín của HGĐ. Đây cũng là biến mới đưa vào mô hình dựa theo lý thuyết của Granovetter (1995). Nghiên cứu của Wanberg & cộng sự (2015), Hoogendoorn (2017) cũng có đề cập đến khía cạnh này. Lòng tin không phải lúc nào cũng có tác động đến việc làm, thu nhập mặc dù lòng tin là yếu tố quan trọng trong cuộc sống (Putnam & Goss, 2001). Helliwell & Huang (2010), Engbers, Rubin & Aubuchon (2013), Yodo & Yano (2017) đã chứng minh rằng, lòng tin giúp tăng thu nhập. Growiec & Growiec (2016) cho rằng, sự tin tưởng và thu nhập cá nhân là MQH chữ U ngược. Lòng tin giúp cho các giao dịch kinh tế được thuận lợi hơn nhưng có tác động tiêu cực đến việc thu hồi nợ đã cho người khác vay, mượn (Phạm Thị Thu Hà, 2019). Theo Huỳnh Phẩm Dũng Phát & Kim Hải Vân (2019), vay mượn tiền từ các MQH xung quanh để đầu tư giúp gia tăng thu nhập, tăng khả năng ĐDH, nhưng để đáp ứng cho những nhu cầu chi tiêu của HGĐ thì ngược lại. Barr, Di Falco & Mourato (2011) đã kết luận rằng, lòng tin giúp tăng khả năng ĐDH. Goulden (2013) đã cung cấp bằng chứng cho thấy, số người cho HGĐ mượn lương thực hay thực phẩm có tác động cùng chiều với ĐDHTN của HGĐ. Trái lại, Wuepper, Yesigat Ayenew & Sauer (2018) kết luận rằng, số người có thể cho HGĐ mượn tiền khi khó khăn làm giảm khả năng ĐDH của HGĐ. Theo Baird & Gray (2014), sự trao đổi của cải vật chất làm giảm khả năng ĐDHTN của HGĐ. Luận án tìm hiểu sự tác động của VXH theo khía cạnh tri nhận đến thu nhập và ĐDHTN của HGĐ, do đó, giả thuyết nghiên cứu đề xuất như sau:

H7.5: HGĐ có thể mượn được tiền khi khó khăn (NBORM) có tác động cùng chiều (+) đến thu nhập của HGĐ (INCF).

H8.5: HGĐ có thể mượn được tiền khi khó khăn (NBORM) có tác động cùng chiều (+) đến ĐDHTN của HGĐ (SID).

HGĐ tham gia đóng góp vào các hoạt động cộng đồng nơi cư trú (COSTC) được đưa vào mô hình theo lý thuyết của Granovetter (1995), Alder & Kwon (2002). Sự gắn

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/02/2024