Khái Quát Những Kết Quả Nghiên Cứu Khoa Học Liên Quan Đến Đề


Và cho rằng: một trong những vấn đề cơ bản nhất của sự thay đổi trong nhận thức về việc làm là coi trọng yếu tố tự tạo việc làm của người lao động trong các thành phần kinh tế. Điều đó sẽ tạo thuận lợi cho việc giải phóng tiềm năng lao động của đất nước một cách hiệu quả nhất. Đây là một trong những thay đổi có tính căn bản của nhận thức về vấn đề tìm kiếm việc làm của người lao động, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Với những nội dung chính vừa nêu, công trình này đã đề cập đến rất nhiều khía cạnh khác nhau liên quan đến vấn đề việc làm-cho người lao động. Song do được nghiên cứu ở những năm trước 1997, nên các lập luận, kiến giải có những hạn chế nhất định. Tuy nhiên, công trình đã mang đến người đọc những kiến thức bổ ích, nhất là phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu về chính sách giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam.

* Cuốn Nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành trong quá trình đô thị hóa trên địa bàn thành phố Hà Nộicủa tác giả Nguyễn Tiệp [43] đã nêu những vấn đề lý luận và thực tiễn về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn thành phố Hà Nội. Những đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình đô thị hóa tác động chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn, chuyển lao động nông thôn sang làm các công việc công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, quá trình đô thị hóa và hội nhập toàn cầu hóa kinh tế góp phần thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp dịch vụ. Sự xuất hiện nhiều ngành nghề mới đòi hỏi nguồn nhân lực nông thôn phải có sự đổi mới nâng cao chất lượng để thích ứng, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Đô thị hóa và di chuyển lao động nông thôn ra thành thị trở thành xu thế không thể cưỡng nổi, nó có tác dụng giảm sức ép căng thẳng về việc làm ở các vùng nông thôn và cung ứng lao động cho thị trường lao động ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu du


lịch. Dòng lao động di chuyển từ nông thôn ra thành thị bao gồm có lao động nhập cư và sinh sống làm việc tại các thành phố và lao động nông thôn đến thành phố làm việc mang tính chất thời vụ. Trong quá trình đô thị hóa quy mô lao động ngành nghề truyền thống, nghề tiểu thủ công nghiệp tăng lên và có vai trò quan trọng trong đảm bảo việc làm và thu nhập của lao động nông thôn. Các làng nghề được cơ giới hóa, điện khí hóa, sản xuất hướng vào xuất khẩu nhiều hơn và có vai trò trong phát triển lao động phi nông nghiệp ở nông thôn. Do đó đặt ra vấn đề phải phát triển đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực nông thôn để đảm bảo cung ứng lao động cho các làng nghề và các cơ sở tiểu thủ công nghiệp. Trong quá trình đô thị hóa, đa số lao động nông thôn ở nước ta còn ở mức thu nhập thấp do đó đòi hỏi các hộ gia đình phải có sự đầu tư rất lớn cho đào tạo phát triển nhân lực để chuyển hướng sang hoạt động phi nông nghiệp. Các chính sách hỗ trợ hoặc phát triển hệ thống tín dụng ưu đãi cho đào tạo nhân lực nông nghiệp nông thôn từ nhà nước còn hạn chế, chưa có tác động lớn để nâng cao chất lượng nông nghiệp nông thôn. Đây thực sự là thách thức lớn đối với nông nghiệp nông thôn trong quá trình đô thị hóa. Cuốn sách cũng phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực nông thôn như động thái dân số, mức sống của dân cư, giáo dục và đào tạo, tăng trưởng và phát triển kinh tế, việc làm và thu nhập, sự phát triển hệ thống giao thông và công nghệ thông tin, các chính sách của chính phủ. Cuốn sách cũng khẳng định phát triển nguồn nhân lực là nhân tố quyết định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn; Khẳng định vai trò trọng tâm của đào tạo trong phát triển nguồn nhân lực và những yêu cầu đối với đào tạo phát triển nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình đô thị hóa gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa là phải đáp ứng được nhân lực chuyên môn kỹ thuật cho thúc đẩy quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn; mức độ đáp ứng nhân lực chuyên môn kỹ thuật nông thôn về số lượng, chất lượng, cơ cấu cấp trình độ, cơ cấu ngành nghề cho quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông


thôn và thể hiện toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Cuốn sách đưa ra các căn cứ để xác định phương án đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nông thôn, các chủ trương chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp nông thôn ngoại thành Hà Nội… Đặc biệt cuốn sách đã đưa ra các giải pháp đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo phát triển nguồn nhân lực nông thôn ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nội dung của cuốn sách là tài liệu quý báu để tác giả nghiên cứu các vấn đề liên quan đến luận án.

* Cuốn Lao động, việc làm và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam của Nguyễn Xuân Khoát [46] bàn về nhiều vấn đề cấp thiết của việc sử dụng nguồn lao động và phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn Việt Nam trong các giai đoạn phát triển. Ở mỗi một công trình được giới thiệu trong cuốn sách, tác giả đã cố gắng nêu được vai trò, ý nghĩa, thực trạng và phương hướng, biện pháp giải quyết các vấn đề đặt ra. Đồng thời, cuốn sách đã góp phần làm sáng rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng hợp lý nguồn lao động và phát triển kinh tế- xã hội ở nông thôn nước ta. Điều đó có ý nghĩa cho việc hoạch định việc sử dụng nguồn lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới hiện nay.

Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu khác như Một số vấn đề lao động, việc làm và đời sống người lao động ở Việt Nam hiện nay [23] hay Thị trường lao động Việt Nam định hướng và phát triển [42] cũng cung cấp rất nhiều bàn luận có giá trị cho đề tài nghiên cứu của luận án.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

1.1.2.4. Các bài viết, nghiên cứu chuyên đề

Các bài báo khoa học nghiên cứu về vấn đề việc làm ở trong nước thời gian qua cũng được rất nhiều người quan tâm, trong đó nổi bật là những bài viết sau:

Việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở Thủ đô Hà Nội - 4

- Bài viết Phương hướng cơ bản giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay của tác giả Trần Đình Hoan [56] đã nêu lên những quan điểm và phương hướng cơ bản của Đảng ta trong việc giải quyết vấn đề việc làm trong giai đoạn công


nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Bài Một số vấn đề về chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa của tác giả Võ Hồng Phúc đã khẳng định vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển và hưng thịnh đất nước: Nguồn nhân lực là mục tiêu của phát triển, được thụ hưởng những thành quả của sự phát triển. Và chính sự thụ hưởng đó tiếp tục tạo ra sự kích thích, động lực cho sự phát triển của chính bản thân nguồn lực và sự phát triển chung. Nguồn nhân lực có vị trí, vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Nguồn nhân lực tốt, chất lượng cao là tiền đề vững chắc và là nhân tố quyết định đến tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, tăng năng suất lao động. Nguồn nhân lực tốt, nhất là nhân lực có trình độ cao đảm bảo chắc chắn trong việc đưa ra những quyết định sáng suốt, đúng đắn đối với đường lối, chủ trương, chính sách và phương thức thực hiện các quyết sách về phát triển và hưng thịnh quốc gia. Đồng thời góp phần quyết định đến sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật và tạo điều kiện thuận lợi cho sự thành công của việc xây dựng và phát triển nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nguồn nhân lực có trình độ cao là nền tảng vững chắc đảm bảo cho việc chuẩn bị tốt và thực hiện thành công quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và hợp tác quốc tế, đồng thời là cơ sở quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ giữ trật tự an ninh xã hội, củng cố sức mạnh quốc phòng và bảo vệ vững chắc sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Bài viết đưa ra một số nội dung cơ bản của chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa:

Trước hết quy mô nguồn nhân lực tiếp tục tăng nhanh đồng thời với yêu cầu chuyển hướng mạnh sang đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng của sự phát triển đang tạo áp lực lớn về đầu tư cả về chiều rộng và theo chiều sâu cho phát triển nhân lực.

Thứ hai, yêu cầu tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, bền vững và chuyển dịch mạnh cơ cấu theo hướng tiến bộ, năng suất, hiệu quả và nâng cao sức cạnh


tranh của nền kinh tế đòi hỏi nguồn nhân lực phải có sự phát triển mạnh mẽ,

thay đổi toàn diện về chất lượng.

Thứ ba, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ cùng với sự hình thành nền kinh tế trí thức và hàm lượng chất xám chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong mỗi sản phẩm, nhiều nguồn thông tin đa dạng, phong phú và dễ dàng tiếp cận đến tất cả mọi người, tác động toàn diện đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội đòi hỏi nguồn nhân lực phải năng động, nhanh chóng nắm bắt những tri thức và tiến bộ khoa học – công nghệ mới, thích nghi với những bối cảnh mới đang liên tục thay đổi.

Thứ tư, quá trình hội nhập, hợp tác và toàn cầu hóa đang diễn ra nhanh chóng đòi hỏi nguồn nhân lực nước ta phải phát triển đến trình độ ngang tầm quốc tế nhằm vừa đáp ứng yêu cầu mới thường xuyên thay đổi của hệ thống luật pháp quốc tế, đồng thời phải giữ gìn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Thứ năm, sự phát triển của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa vừa đòi hỏi sự đổi mới không chỉ về một số nội dung của phát triển nguồn nhân lực, mà còn về phương thức phát triển nguồn nhân lực.

Thứ sáu, công cuộc cải cách hành chính nhà nước, đổi mới quản lý kinh tế và xã hội diễn ra một cách sâu, rộng và toàn diện, đặt ra những yêu cầu mới đối với sự phát triển nguồn nhân lực không chỉ riêng đối với những người làm công tác quản lý, mà cả trong nhận thức về hành vi, trách nhiệm và cách ứng xử của mọi người dân. Bài viết cũng xác định những quan điểm cơ bản về phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam đó là: phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ hàng đầu và là khâu đột phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải hướng vào việc xây dựng đội ngũ những người lao động có phẩm chất và năng lực ngày càng cao với cơ cấu hợp lý về trình độ, ngành nghề và theo lãnh thổ. Coi trọng việc phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng và tôn vinh nhân tài. Phát triển nguồn nhân lực là trách nhiệm của nhà nước và toàn xã hội. Đảm bảo công bằng xã hội trong phát triển


nguồn nhân lực, quan tâm nhiều hơn đến phát triển nguồn nhân lực đến các vùng kém phát triển và các bộ phận dân cư hiện còn đang gặp nhiều khó khăn, thực hiện mục tiêu đoàn kết, ổn định xã hội và phát triển bền vững. Bài viết cũng đưa ra các mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể về phát triển nguồn nhân lực cho 10 năm đầu của thế kỷ 21 ở nước ta. Ngoài chức năng sản xuất và dịch vụ, bộ phận này có nhiệm vụ chuẩn bị lao động kỹ thuật cao hơn cho giai đoạn sau. Lao động phổ thông, chủ yếu ở nông thôn và khu vực phi kết cấu với chức năng chính là tạo việc làm, phục vụ nhu cầu tại chỗ và đảm bảo thu nhập, đời sống cho người lao động. Những nội dung xóa đói, giảm nghèo nhằm phát triển nguồn nhân lực sẽ thay đổi, hướng vào việc nâng cao chất lượng của các mục tiêu giảm nghèo và cải thiện đời sống, sử dụng mức chuẩn nghèo quốc tế và lồng ghép với mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đã được 149 nguyên thủ quốc gia và những người đứng đầu chính phủ của 180 nước( trong đó có Việt Nam) thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ tháng 9-2000. Những biến đổi tiến bộ trong cơ cấu lao động, cùng với quá trình giảm nghèo sẽ góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển ở nước ta một tầng lớp trung lưu chiếm đa số trong xã hội và có ý nghĩa định hướng cho sự phát triển tiếp theo của nguồn nhân lực trong những năm tới. Đây cũng là những nội dung được tác giả Nguyễn Hữu Dũng đề cập trong bài viết của mình [36].

- Bài Tổng quan nông nghiệp nông thôn Việt Nam sau 25 năm thực hiện Nghị quyết 10 của bộ chính trị (Khóa VI) của tác giả Nguyễn Sinh Cúc [41] đã đánh giá những thành tựu và hạn chế về sản xuất nông nghiệp và đời sống ở nông thôn sau 25 năm thực hiện Nghị quyết 10. Đây là những tư liệu quan trọng để luận án đánh giá hiện trạng về phát triển nông nghiệp nông thôn trước khi có chương trình xây dựng nông thôn mới.

Ngoài ra còn nhiều bài viết của các tác giả khác cũng cung cấp rất nhiều thông tin có giá trị tham khảo cho đề tài luận án về thực trạng, các vấn đề đặt ra cũng như các giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề đó [39, 44].


Các bài viết nói trên mới chỉ đề cập đến từng mặt, từng góc cạnh của vấn đề việc làm cho người lao động như cung cầu sức lao động, số lượng, chất lượng sức lao động, chính sách sử dụng lao động, các biện pháp, cách thức giải quyết việc làm cho người lao động ở Việt Nam. Nhìn chung, dưới các góc độ nghiên cứu khác nhau, các công trình nghiên cứu của các tác giả đã tiếp cận và làm rõ được nhiều khía cạnh của tình hình việc làm, tình hình nguồn lao động, thị trường lao động và việc thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động. Đây là những căn cứ khoa học quan trọng để kế thừa và phát triển cho quá trình nghiên cứu thực hiện của luận án.

1.2. Khái quát những kết quả nghiên cứu khoa học liên quan đến đề

tài và những vấn đề đặt ra

1.2.1. Những kết quả được khẳng định về mặt khoa học, thực tiễn và một số vấn đề chưa được đề cập đến

Các công trình nghiên cứu của nước ngoài đã nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của tình trạng việc làm, thất nghiệp và các chính sách giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở các quốc gia có đặc điểm về phát triển kinh tế

- xã hội tương đồng với Việt Nam, từ đó cung cấp những tiền đề khoa học quan trọng làm cơ sở để xây dựng các giải pháp giải quyết vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng.

Ở các công trình nghiên cứu trong nước về vấn đề lao động, việc làm được các tác giả nêu tương đối đầy đủ từ những quan niệm cơ bản, đến định hướng phát triển việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Những quan niệm, định hướng đó đã giúp cho tác giả luận án có nhiều cơ sở khoa học, lý luận cũng như thực tiễn khi triển khai nghiên cứu vấn đề việc làm cho người lao động nông nghiệp ở Hà Nội được thuận lợi hơn.

Về mặt lý luận, những nghiên cứu trên đã đưa ra quan niệm về giải quyết việc làm cho lao động trong nền kinh tế thị trường với các chính sách về giáo


dục đào tạo, nâng cao kỹ năng, trình độ của người lao động; các chính sách về tín dụng nông thôn nhằm hỗ trợ cho người lao động nông thôn tự tạo việc làm, ổn định thu nhập; chính sách đối với phụ nữ nông thôn không di cư ra đô thị để đảm bảo nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của họ. Các công trình khoa học, chuyên đề nghiên cứu, bài viết đều khẳng định vai trò quan trọng của chính sách nhà nước trong việc nâng cao tính năng động, tự chủ của người lao động nhằm tự giải quyết việc làm cho bản thân và gia đình trong đó, có tác động rất lớn đến đời sống của người dân, đảm bảo thu nhập ổn định và ngày càng tăng. Tác động của quá trình công nghiệp hóa gắn với đô thị hóa nông thôn là một nguyên nhân thúc đẩy người lao động nông thôn tìm kiếm việc làm trong các ngành nghề phi nông nghiệp, tạo ra thu nhập và cơ hội việc làm tốt hơn cho lao động nông thôn. Từ đó, luận giải sự cần thiết khách quan, bản chất, hình thức và một số đặc điểm quan trọng của lao động nông nghiệp, nông thôn đối với phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân khu vực nông nghiệp, nông thôn.

1.2.2. Một số vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu

Từ những phân tích số liệu về thị trường lao động nông nghiệp và các chính sách tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn tại các quốc gia và tại Việt Nam, các tác giả đã đưa ra những khuyến nghị chính sách trong việc hình thành một thị trường tín dụng cho lao động nông nghiệp của Việt Nam; phát triển kinh tế - xã hội cho các khu vực nông thôn để giải quyết việc làm cho lao động tại chỗ; thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa nông thôn như là những động lực quan trọng nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống người dân khu vực nông nghiệp, nông thôn.

Tuy nhiên, có thể thấy chưa có một công trình khoa học nào tập trung nghiên cứu về việc làm và giải quyết việc làm trong quá trình xây dựng nông thôn mới, đặc biệt là trong điều kiện khu vực nghiên cứu là Thủ đô, nơi có nhiều đặc điểm đặc thù so với các địa phương khác. Các lý luận đều mang tính tổng

Xem tất cả 201 trang.

Ngày đăng: 15/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí