Tỉ Lệ Tương Đồng Thành Phần Loài Ve Giáp Giữa Bốn Mùa


Để đánh giá sự tương đồng về thành phần loài Ve giáp giữa bốn mùa, sử dụng hệ số tương đồng Bray - Curtis (Sjk). Kết quả được biểu diễn theo hai dạng biểu đồ, biểu đồ nhóm CLUSTER và biểu đồ đa chiều MDS. Các số liệu về sự phong phú loài được chuyển đổi sang dạng (square root) trước khi thực hiện các ma trận tương đồng, chạy trên phần mềm Primer - E (V6.1.6).

Bảng 3.12. Tỉ lệ tương đồng thành phần loài Ve giáp giữa bốn mùa



Xuân

Thu

Đông

Xuân





15,69




Thu

57,33

22,86



Đông

70,24

16,10

61,72


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.

Phân tích bảng 3.12 và hình 3.16 cho thấy:

Mức độ tương đồng thành phần loài Ve giáp giữa bốn mùa nhìn chung khá cao dao động lớn trong khoảng từ 18,22% - 70,24%. Từ số liệu, có thể chia mức độ tương đồng thành phần loài Ve giáp trong bốn mùa thành hai nhóm quần xã:

Nhóm thứ nhất với mức tương đồng >70%: mức độ tương đồng thành phần loài cao nhất giữa mùa xuân và đông đạt khá cao 70,24%.

Nhóm thứ hai với mức tương đồng 50%-70%: mức tương đồng thành phần loài giữa mùa thu với hai mùa trên gồm mùa xuân và đông đạt 59,52%.

Nhóm thứ ba <50%: với mức tương đồng thành phần loài thấp nhất giữa mùa hè với ba mùa còn lại thu, xuân, đông, với 18,22%.


Hình 3 16 CLUSTER độ tương đồng thành phần loài Ve giáp giữa các mùa Như vậy 1

Hình 3.16. CLUSTER độ tương đồng thành phần loài Ve giáp giữa các mùa

Như vậy, qua phân tích số liệu thấy rõ xu hướng, mùa xuân và đông có sự gần gũi nhất về thành phần loài trong bốn mùa, mùa thu có mức độ tương đồng thành phần loài trung bình, riêng giai đoạn mùa hè có sự tách biệt rõ rệt nhất về thành phần loài so với các mùa còn lại trong năm.

3.3.5. Bàn luận và nhận xét

Như vậy yếu tố mùa kết hợp với các điều kiện canh tác lâu năm rất đã có những ảnh hưởng nhất định lên cấu trúc quần xã Ve giáp dẫn đến, sự thay đổi các giá trị định lượng của quần xã như số lượng loài (S), độ đa dạng loài (H’) và độ đồng đều (J’) và độ phong phú loài (d), chỉ số ưu thế ngược (1 -λ), đặc biệt sự tăng trội và chiếm ưu thế của một số nhóm loài ở mỗi giai đoạn mùa khác nhau, có thể được xem xét như một yếu tố chỉ thị liên quan đến sự thay đổi mùa trong năm. Cụ thể được thể hiện ở hình 3.17, kết hợp với số liệu bảng 3.10 và bảng 3.11 (mục 3.3.2, 3.3.3).


H' J' d 1 -λ

4.5

S

40

4.21

4.15

4

35

3.5

35

3.35

3.25

31

32

30

d

3

25

J'

2.5

2.23

21

20

2

2.04

H'

2.12

1.5

1.85

15

1- λ

1

0.84

0.98

0.78

0.74

10

S

0.5

0.99

0.73

0.75

0.67

5

0 0

X H T Đ

Hình 3.17. Sự thay đổi giá trị các chỉ số S, d, J’, H’, 1- λ, của Ve giáp trong bốn mùa‌

Từ hình 3.17, thấy rõ ràng, cấu trúc quần xã Ve giáp phát triển đa dạng, phong phú nhất trong giai đoạn mùa xuân, thời điểm thuận lợi nhất trong năm cho sự phát triển nói chung của các sinh vật. Đến thời điểm lập hạ, giai đoạn có nhiệt độ cao nhất trong năm, kết hợp chịu ảnh hưởng nhẹ của hiệu ứng gió phơn có tính chất khô nóng theo Vũ Tự Lập (2006) [7], trong điều kiện này mặc dù quần xã có sự đồng đều cao nhất trong năm, khả năng xuất hiện loài ưu thế thấp, nhưng sự đồng đều này lại trong tương quan giảm sút rõ rệt về tính đa dạng, phong phú loài. Xu hướng này kéo dài cho đến giai đoạn sang thu, vẫn ghi nhận tiếp sự suy giảm tiếp về tính đa dạng và phong phú loài, mặc dù số lượng loài có sự gia tăng, quan sát thấy tính đồng đều cao của quần xã vào thời điểm này đã bị phá vỡ, như vậy sự gia tăng số loài và mật độ quần thể có thể do sự đóng góp nhất định của một số nhóm loài ưu thế phát triển tạo ra. Qua giai đoạn thu, vào đông, quần xã bắt đầu có xu hướng hồi phục và phát triển hơn lấy lại dần tính đa dạng, phong phú loài, tuy nhiên thời điểm này quần xã vẫn chưa đạt được mức độ ổn định thực sự trong cấu trúc, vì khả năng xuất hiện các nhóm loài ưu thế khá cao, việc gia tăng số lượng và mật độ cá thể có


thể do một vài nhóm loài mới thích nghi, phát triển tốt trong điều kiện nhiệt độ thấp, chính những loài này quy định kích thước của quần thể.

Như vậy có thể thấy yếu tố mùa đã gây nên sự ảnh hưởng rõ rệt lên cấu trúc quần xã của Ve giáp, trong đó nhân tố nhiệt độ là một trong những nhân tố chính. Sự ảnh hưởng của chế độ nhiệt đến sự sinh trưởng phát triển của các loài ve cũng được đề cập trong nhiều nghiên cứu trước đây. Krivolutsky (1980), yếu tố nhiệt theo mùa có ảnh hưởng mạnh mẽ lên cấu trúc quần xã Ve giáp đất, những nhóm chịu được nhiệt độ thấp hơn thường phân bố ở bề mặt đất hoặc thảm lá, khi đến thời điểm lạnh giá chúng có xu hướng di cư vào các tầng đất sâu phía dưới [109]. Vào những thời điểm mùa đông lạnh giá ghi nhận có sự sụt giảm rõ rệt tính đa dạng do nhiều nhóm Ve giáp bị diệt vong, và chỉ cần chuyển sang đầu hè đã quan sát thấy sự phục hồi nhanh chóng. Theo Qiu & Fu (2004) đã tổng kết hàm lượng nước trong đất và nhiệt độ đất là nguyên nhân chính dẫn tới sự thay đổi số lượng Ve giáp ở đất, nhiệt độ ưu thích cho chúng là khoảng 240C [133]. Uvarov (2003) cho thấy cụ thể, nhiệt độ đã có tác động điều chỉnh đến mức độ sinh sản và tỉ lệ sống sót của cá thể ve giáp trưởng thành, cụ thể nhiệt độ cực đoan như thấp hoặc cao quá đã có những ảnh hưởng nhất tiêu cực đối với khả năng sinh sản và gia tăng mức tử vong của một số nhóm ve, trong khi đó nhiệt độ trung bình tạo ra những tác động tích cực hơn lên quá trình sản sinh các cá thể con non và tỉ lệ tử vong thấp hơn ở các cá thể trưởng thành [142]. Trong nghiên cứu của tác giả phần nào nhận thấy sự ảnh hưởng này. Trong đó đặc biệt sự suy giảm nhanh chóng tính đa dạng của quần xã trong giai đoạn hè, có thể do yếu tố nhiệt cao là một nhân tố giới hạn với nhiều loài ở vùng nghiên cứu, hơn là yếu tố nhiệt thấp, giả thiết này đặt ra dựa trên cơ sở khí hậu mát mẻ quang năm ở vùng nghiên cứu, trong điều kiện môi trường như vậy, sinh vật nói chung trong đó có sinh vật đất và nhóm Ve giáp nói riêng thích nghi hơn với điều kiện khí hậu mát mẻ.

Từ độ ưu thế D của quần xã Ve giáp trong bốn mùa, thấy rằng mỗi mùa có một tập hợp loài ưu thế nhất định, trong đó đáng chú ý sự có mặt của hai loài Rostrozetes ovulum ovulum Scheloribates mahunkai ưu thế hoặc rất ưu thế trong


cả bốn mùa đây có thể là những loài có ý nghĩa chỉ thị quan trọng cho điều kiện sinh thái môi trường đất canh tác chè nói chung của cả vùng nghiên cứu. Điều kiện sinh thái môi trường vào mùa thu có thể rất thuận lợi cho R. ovulum ovulum vì thế chúng phát triển đông đảo nhất ở thời điểm này, chiếm nửa số cá thể của quần xã Ve giáp với 51,88%, điều này tạo ra sự mất cân bằng nội tại quần xã Ve giáp vào mùa thu, vì thế trong giai đoạn này chỉ số đa dạng loài H’ và độ phong phú loài d thấp nhất trong cả bốn mùa. Mặc dù có R. ovulum ovulum có độ ưu thế cao nhất trong cả bốn mùa chiếm 51,88% vào mùa thu, nhưng mức độ ổn định của quần xã Ve giáp ở mùa thu còn cao hơn mùa đông và mùa đông là thấp nhất trong cả bốn mùa. Điều này có thể được giải thích bởi mùa đông có mật độ trung bình cá thể cao nhất trong bốn mùa, nhưng chỉ số ưu thế ngược thấp nhất tức khả năng xuất hiện loài ưu thế ở giai đoạn này lớn, kiểm chứng điều này bằng độ ưu thế D, các số liệu cho thấy ở giai đoạn này nổi lên hai loài rất ưu thế với tỉ lệ cao, ngoài R. ovulum ovulum (chiếm 20,90% tổng số loài) thì có loài P. brevisetus có tỉ lệ khá cao chiếm 38,95% tổng số loài vào mùa đông, vì thế mức độ đồng đều của quần xã Ve giáp thấp nhất ở giai đoạn này.

Xét mức độ tương đồng thành phần loài trong bốn mùa, hình thành ba phức hợp khu hệ của quần xã Ve giáp, quần xã Ve giáp hình thành ở giai đoạn mùa đông

- xuân, thứ hai là quần xã Ve giáp hình thành ở giai đoạn mùa hè tách biệt hẳn so với các mùa còn lại, giữa hai quần xã trên, quần xã Ve giáp trung gian liên kết với hai quần xã trên hình thành ở giai đoạn mùa thu.

3.4. Cấu trúc quần xã Ve giáp trong chu kỳ ngày đêm ở vùng nghiên cứu

3.4.1. Đặc điểm phân bố của Ve giáp trong chu kỳ ngày đêm

Kết quả phân tích 1318 cá thể Ve giáp thu được trong chu kỳ ngày đêm, ghi nhận được 41 loài thuộc 31 giống, 18 họ và 15 liên họ (bảng 3.1).

Trong tổng số 41 loài ghi nhận theo chu kỳ ngày đêm (chiếm 27,15% tổng số loài ghi nhận được của cả vùng nghiên cứu), chỉ có loài Perxylobates sp. mới xác định đến giống (chiếm 2,44% tổng số loài theo chu kỳ ngày đêm). Kết quả này đóng góp 10 loài mới cho khu hệ Ve giáp Việt Nam (chiếm 24,39% tổng số loài theo chu kỳ ngày đêm) và 13 loài mới cho vùng nghiên cứu chiếm 31,71% tổng số loài theo chu kỳ ngày đêm.


Đặc điểm phân bố theo chu kỳ ngày đêm của Ve giáp được thể hiện cụ thể ở

bảng 3.1, bảng 3.13 và hình 3.18, các số liệu cho thấy:

Bảng 3.13. Đặc điểm phân bố các bậc taxon của Ve giáp trong chu kỳ ngày đêm‌

Chu kỳ Taxon


6h00


12h00


18h00


24h00


Tổng số

Liên họ

7

10

11

9

15

Họ

9

13

13

11

18

Giống

13

22

20

16

31

Loài

14

25

25

20

41


Số lượng liên họ và họ dao động trong chu kỳ ngày đêm có sự chênh lệch không quá lớn, có xu hướng cao nhất ở thời điểm 18h00 và 12h00, giảm dần đến 24h00 và thấp nhất là thời điểm 6h00.

- Tổng số liên họ theo chu kỳ ngày đêm là 15. Giữa các chu kỳ số liên họ dao động từ 7 – 11, số liên họ giảm theo thứ tự như phân tích ở trên với số lượng lần lượt: 11, 10, 9, 7. Thời điểm 18h00 có số liên họ cao nhất (11 liên họ, chiếm tới 73,33% tổng số liên họ), thời điểm 6h00 có số liên họ thấp nhất (7 liên họ, chiếm 46,67% tổng số liên họ). Trong 15 họ ghi nhận được có:

+ 5 liên họ có mặt ở cả bốn thời điểm khảo sát (chiếm 33,33% tổng số liên họ trong chu kỳ ngày đêm): Euphthiracaroidea Jacot, 1930; Nanhermannioidea Sellnick, 1928; Oppioidea Sellnick, 1937; Microzetoidea Grandjean, 1936;

Oripodoidea Jacot, 1925.

+ 3 liên họ ghi nhận được ở ba thời điểm (chiếm 20% tổng số liên họ): Lohmannioidea Berlese, 1916; Amerobelboidea Grandjean, 1954; Tectocepheoidea Grandjean, 1954.

+ 2 liên họ có mặt ở hai thời điểm (chiếm 13,33% tổng số liên họ): Hypochthonioidea Berlese, 1910; Trizetoidea Ewing, 1917.


+ 3 liên họ ghi nhận ở cả một thời điểm khảo sát (chiếm 20% tổng số liên họ): Cosmochthonioidea Grandjean, 1947; Gustavioidea Oudemans, 1900; Galumnoidea Jacot, 1925.

Số lượng taxon

30

25

25

25

22

20

20

20

16

15

13 14

13

13

11

11

10

9

10

9

7

Liên họ Họ Giống

Loài

5


0

6h00

12h00

18h00

24h00 Chu kỳ ngày đêm

Hình 3.18. Đặc điểm phân bố các bậc taxon của Ve giáp trong chu kỳ ngày đêm

- Tổng số họ theo chu kỳ ngày đêm là 18, Giữa các thời điểm khảo sát số họ dao động từ 9 – 13, thời điểm 18h00 và 12h00 đều có số họ cao nhất với 13 họ (chiếm tới 72,22% tổng số họ), và thấp nhất vào thời điểm 6h00 với 9 họ (chiếm 50% tổng số họ), số họ giảm lần lượt 13, 11, 9. Trong 18 họ có:

+ 6 họ có mặt ở cả bốn thời điểm khảo sát (chiếm 33,33% tổng số họ trong chu kỳ ngày đêm): Euphthiracaridae Jacot, 1930; Nanhermanniidae Sellnick, 1928; Oppiidae Sellnick, 1937; Microzetidae Grandjean, 1936; Scheloribatidae Grandjean, 1933; Protoribatidae Balogh et P. Balogh, 1984.

+ 3 họ có mặt ở cả ba thời điểm khảo sát (chiếm 16,67% tổng số họ): Lohmanniidae Berlese, 1916; Eremobelbidae Balogh, 1961; Tectocepheidae Grandjean, 1954.

+ 3 họ có mặt ở cả hai thời điểm khảo sát (chiếm 16,67% tổng số họ): Hypochthoniidae Berlese, 1910; Suctobelbidae Jacot, 1938; Haplozetidae Grandjean, 1936.


+ 5 họ có mặt ở cả một thời điểm khảo sát (chiếm 27,78% tổng số liên họ): Cosmochthoniidae Grandjean, 1947; Astegistidae Balogh, 1961; Quadroppiidae Balogh, 1983; Mochlozetidae Grandjean, 1960; Galumnidae Jacot, 1925.

- Tổng số giống trong chu kỳ ngày đêm là 31 giống. Dao động số giống giữa các thời điểm là 13 – 22. Số giống cao nhất vào thời điểm 12h00 (22 giống, chiếm tới 70,97% tổng số giống), tiếp đến 18h00 (20 giống), thời điểm 24h00 (16 giống), cuối cùng thấp vào thời điểm 6h00 (13 giống, chiếm 41,94% tổng số giống). Trong 31 giống ghi nhận được theo chu kỳ ngày đêm ở VNC có:

+ 9 giống có mặt ở cả bốn thời điểm khảo sát (chiếm 29,03% tổng số giống trong bốn chu kỳ ngày đêm): Microtritia, Masthermannia, Multioppia, Ramusella, Arcoppia, Berlesezetes, Scheloribates (Bischeloribates), Perxylobates, Rostrozetes.

+ 6 giống có mặt ở cả ba thời điểm khảo sát (chiếm 19,35% tổng số giống):

Papillacarus, Eremobelba, Microppia, Oppiella, Tectocepheus, Scheloribates.

+ 4 giống có mặt ở cả hai thời điểm khảo sát (chiếm 12,90% tổng số giống):

Eohypochthonius, Suctobelbella (Flagrosuctobelba), Suctobelbila, Peloribates.

+ 9 giống có mặt ở cả một thời điểm khảo sát (chiếm 29,03% tổng số giống): Cosmochthonius, Cultroribula, Amerioppia, Quadroppia, Novosuctobelba (Leptosuctobelba), Suctobelbella, Unguizetes, Pergalumna, Trichogalumna.

- Tổng số loài trong chu kỳ ngày đêm là 41 loài, giữa các thời điểm số loài dao động từ 14 – 25, ghi nhận số loài cao nhất vào thời điểm 12h00 và 18h00 với 25 loài và thấp nhất vào thời điểm 6h00 với 14 loài, trong đó:

+ Có 10 loài phân bố ở cả bốn thời điểm khảo sát (chiếm 24,39% tổng số loài trong chu kỳ ngày đêm): M. tropica Märkel, 1964; M. mammillaris (Berlese, 1904);

M. tamdao Mahunka, 1988; R. pinifera Mahunka, 1988; A. arcualis (Berlese, 1913); B. ornatissimus (Berlese, 1913); S. mahunkai Subias, 2010; P. brevisetus Mahunka, 1988; P. taidinchani Mahunka, 1976; R. ovulum ovulum (Berlese, 1908).

+ Có 6 loài phân bố ở ba thời điểm khảo sát (chiếm 14,63% tổng số loài trong chu kỳ ngày đêm): P. undirostratus Aoki, 1965; E. japonica Aoki, 1959; M. minus

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/06/2023