một giải pháp cho một vấn đề được áp dụng trong công việc, nó diễn ra liên tục và được triển khai cho các cấp. Hay nói cách khác những gì đã từng là một giả thuyết, chỉ được hỗ trợ bởi một linh cảm hoặc một giá trị, dần dần được công nhận và đối xử như một thực tại, một việc hiển nhiên đúng. Bản chất của cấp độ “các ngầm định nền tảng” thực sự hoạt động theo cách này. (Shein, 2004).
Khi các nhóm và tổ chức phát triển thì các giả định đã được xây dựng, việc điều chỉnh cho phù hợp với môi trường bên ngoài và sự hội nhập trong nội bộ cũng phản ánh các giả định sâu xa hơn đối với những vấn đề trừu tượng hơn, tổng quát hơn từ đó con người cần sự đồng thuận để có một hình thái xã hội. Nếu chúng ta không thể thống nhất được đâu là sự thật, bằng cách nào để xác định đâu là chân lý và đâu là sai lầm; làm thế nào để đo lường được thời gian, để phân bổ không gian; bản chất của con người là gì, làm thế nào để mọi người sống hài hòa với nhau thì không thể xây dựng được xã hội. (Shein, 2010).
Ngầm định về sự thật và chân lý:
Một phần nền móng của văn hóa là tập hợp các giả định về việc cái gì là sự thật và làm thế nào để xác định và tìm ra sự thật. Các giả định này cho phép những thành viên trong nhóm biết được cách thức để xác định các thông tin phù hợp, có liên quan, cách lý giải thông tin và cách để xác định khi nào họ đã có đủ thông tin và có thể ra quyết định có hành động hay không, và cần có hành động gì. Sự thật có thể tồn tại trong các cấp độ tự nhiên, nhóm và cá nhân, và việc kiểm tra đâu là sự thật cũng khác nhau tùy cấp độ - kiểm tra bằng trực quan, sự đồng thuận mang tính xã hội, hay trải nghiệm của cá nhân.
Ngầm định về thời gian và không gian:
Cấu trúc sâu của văn hóa không những chỉ bao gồm cách thức mà chúng ta nhìn nhận thực tế và chân lý, mà còn có cả cách mà chúng ta định hướng
bản thân về môi trường tự nhiên và con người, có liên quan đến các khái niệm vô thức và được cho là hiển nhiên về thời gian và không gian. Nhận thức và trải nghiệm về thời gian là một trong những khía cạnh quan trọng về cách thức mà các nhóm vận hành. Khi con người khác nhau trong những trải nghiệm về thời gian, những vấn đề lớn trong giao tiếp và quan hệ sẽ phát sinh. Việc quản lý thời gian áp đặt một trật tự xã hội và chuyển tải ý nghĩa của địa vị và ý chí. Bên cạnh đó những giả định của chúng ta về ý nghĩa và việc sử dụng không gian là một trong những khía cạnh tinh tế nhất trong văn hóa tổ chức vì các giả định này, giống như những giả định về thời gian, vận hành bên ngoài nhận thức của chúng ta và được coi là điều hiển nhiên. Cùng lúc đó, khi các giả định trên bị can thiệp, các phản ứng mang nhiều cảm xúc sẽ xuất hiện bởi vì không gian có ý nghĩa biểu tượng mạnh mẽ, như người ta vẫn thường hay nói “đừng bước vào „không gian‟ của tôi”. Một trong những phương pháp tường minh nhất để biểu tượng hóa cấp bậc và chức vụ trong tổ chức là vị trí và kích thước của văn phòng làm việc.
Ngầm định về con người, các hoạt động và mối quan hệ:
Có thể bạn quan tâm!
- Tổng Quan Tình Hình Nghiên Cứu Và Cơ Sở Lý Luận Về Văn Hóa Kinh Doanh Và Văn Hóa Tổ Chức
- Văn hóa kinh doanh tại khu Du lịch - Di tích đền Sóc Sơn - 4
- Mô Hình Ba Cấp Độ Về Văn Hóa Tổ Chức Của Edgar H. Schein
- Mô Tả Quá Trình Điều Tra, Xử Lý Và Phân Tích Số Liệu
- Câu Hỏi Được Sử Dụng Để Khảo Sát Về Vhkd Tại Khu Du Lịch -
- Quá Trình Hoạt Đ N Của Run Tâm Quản Lý Khu Du Lịch - Di Tích Đền Sóc Sơn
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
Ngầm định nói về khía cạnh sâu sắc hơn của văn hóa liên quan đến bản chất, hành động và các mối quan hệ của con người. Cần xem xét những giả định căn bản về bản chất con người với các thuộc tính: tự nhiên, có tính toán, mang tính xã hội, hiện thực hóa bản thân hay phức tạp, tích cực hay dễ thay đổi (theo lý thuyết Y), hoặc tiêu cực và cố định (theo lý thuyết X). Cần chú ý rằng một số văn hóa nhấn mạnh đến hành động và chinh phục, trong khi một số văn hóa khác theo xu hướng chấp nhận thực tại, và một số khác nữa lại chú trọng đến việc điều chỉnh cho phù hợp với thực tại. Sau đó xét các giả định căn bản được sử dụng để thể hiện các đặc trưng trong quan hệ của con người. Quan trọng nhất là tìm hiểu xem nhóm về căn bản là đi theo chủ nghĩa cá nhân và cạnh tranh, hay theo chủ nghĩa tập thể hợp tác. Trong mọi tổ chức
đều có một nhóm đại diện cho các yếu tố căn bản, nhóm này sẽ thực hiện chức năng như một văn hóa bộ phận. Tại các tổ chức kinh doanh có tính chất dịch vụ thì chất lượng dịch vụ hay sự thỏa mãn khách hàng mang tính chất là nền móng thì kinh nghiệm và các k năng giao tiếp có ý nghĩa quan trọng xây dựng nên tổ chức với những giả định.
Tầng thứ ba và là tầng sâu nhất của văn hoá doanh nghiệp là những giá trị nền tảng. Khi các giá trị được thừa nhận và phổ biến đến mức gần như không có sự thay đổi, chúng sẽ trở thành các giá trị nền tảng. Thực tế, nếu một quan niệm mạnh tồn tại trong một nhóm hay một tổ chức, các thành viên trong đó sẽ thấy rằng hành vi của họ sẽ không cần phải dựa trên một cơ sở nào khác ngoài quan niệm đó. Các quan niệm này có tác dụng định hướng hành vi của các thành viên trong quá trình nhận thức, tư duy và cảm nhận về các vấn đề và quan hệ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Những giá trị này không thể bị phản bác hay bàn luận và do đó sẽ rất khó thay đổi. Một khi các giá trị này thay đổi sẽ dẫn đến sự xáo trộn hoặc khủng hoảng trong tổ chức. Trong quá trình học hỏi, các thành viên trong nhóm hoặc tổ chức có xu hướng tiếp thu cái mới nếu chúng phù hợp với các giá trị căn bản này, ngay cả khi đó là sự xuyên tạc, bóp méo, sự từ chối hoặc phản đối những gì đang xảy ra. Chính trong quá trình tâm lý này, văn hoá có quyền lực cuối cùng. Đây là cơ sở xây dựng định hướng hoạt động của doanh nghiệp và chi phối các quyết định quản lý; là niềm tin, là giá trị bền vững không thay đổi bất chấp thời gian và ngoại cảnh. Vì vậy, điều kiện tiên quyết để quá trình xây dựng văn hoá doanh nghiệp thành công là sự cam kết của những người lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp.
Văn hóa của bất kỳ doanh nghiệp hay tổ chức chính thức nào có thể được nghiên cứu ở ba cấp độ: cấp độ thực thể hữu hình, cấp độ các niềm tin và giá trị được tuyên bố hay cấp độ các ngầm định nền tảng. Nếu chúng ta
không giải mã được mô hình của các ngầm định nền tảng có thể được hoạt động, người ta sẽ không biết làm thế nào để giải thích các hiện vật một cách chính xác hoặc bao nhiêu niềm tin để cung cấp cho các giá trị khớp nối. Nói cách khác, bản chất của một nền văn hóa nằm trong mô hình của các ngầm định cơ bản, và một khi người ta hiểu được thì có thể dễ dàng hiểu được mức độ bề mặt khác hơn và xử lý một cách thích hợp với họ.
1.2.2.2. Mô hình văn hóa đa chiều của Geert Hofstede
Có những quy tắc có thể áp dụng cho nơi này nhưng lại không đúng ở nơi khác, vậy câu hỏi đặt ra là “Làm sao để hiểu được sự khác biệt về văn hóa đó?”. Chúng ta buộc phải học hỏi từ sai lầm của chính mình hay có thể tham khảo từ những người đi trước?
Tiến s tâm lý học Geert Hofstede đã tự mình hỏi và giải đáp câu hỏi này trong những năm 1970 qua hơn 1 thập k nghiên cứu và hàng ngàn bài phỏng vấn. Để từ đó, hình thành nên tiêu chuẩn được công nhận trên toàn thế giới về mô hình các chiều văn hóa.
Năm chiều văn hóa mà Hofstede đưa ra bao gồm:
Khoảng cách quyền lực (PDI) - Chiều này nói lên mức độ bất bình đẳng đã tồn tại - và được chấp nhận - giữa những người có và không có quyền lực trong xã hội. PDI cao đồng nghĩa với việc xã hội chấp nhận sự phân phối không công bằng về quyền lực và mọi người đều hiểu “chỗ đứng” của mình trong xã hội. Còn PDI thấp có nghĩa là quyền lực được chia s và được phân tán đồng đều trong xã hội và mọi thành viên trong xã hội xem mình bình đẳng với người khác.
Chủ nghĩa cá nhân (IDV) - Nói lên sức mạnh của một cá nhân với những người khác trong cộng đồng. IDV cao chứng tỏ cá nhân đó có kết nối lỏng l o với mọi người. Tại các quốc gia có IDV cao, mọi người thường ít kết nối và ít chia s trách nhiệm với nhau ngoại trừ gia đình và một vài người bạn
thân. Còn trong xã hội có IDV thấp, các cá nhân gắn kết mạnh với nhau và mức độ trung thành cũng như tôn trọng dành cho thành viên của nhóm khá cao. Quy mô nhóm cũng lớn hơn và thành viên chịu trách nhiệm nhiều hơn cho mỗi thành viên khác trong nhóm.
Nam tính (MAS) - Chiều này đề cập đến việc xã hội gắn kết và đề cao vai trò truyền thống của nam và nữ ra sao. Xã hội có MAS cao là những nơi nam giới được trông đợi phải là trụ cột, quyết đoán và mạnh mẽ còn phụ nữ sẽ không được giao trọng trách và công việc vốn thuộc về nam giới. Ngược lại, xã hội có MAS thấp không đảo ngược vai trò giới tính mà chỉ đơn giản là làm mờ vai trò của nó. Ở đó, nữ giới và nam giới làm việc cùng nhau trên nhiều ngành nghề. Đàn ông được phép yếu đuối và phụ nữ có thể làm việc chăm chỉ để tiến thân trên sự nghiệp.
Chỉ số né tránh sự không chắc chắn (UAI) - Chiều này liên quan tới mức độ lo lắng của các thành viên trong xã hội về những tình huống không chắc chắn hoặc không biết. Quốc gia có điểm UAI cao luôn cố gắng tránh xa các tình huống không rõ ràng hết mức có thể. Xã hội đó được điều chỉnh bởi các quy tắc, trật tự và luôn tìm kiếm một “sự thật” chung. UAI thấp điểm cho thấy xã hội đó thích hưởng ứng sự kiện mới và các giá trị khác biệt. Có rất ít quy tắc chung và người dân được khuyến khích tự do khám phá sự thật.
Định hướng dài hạn (LTO) - Chiều này đề cập đến việc xã hội đánh giá các giá trị xã hội lâu đời – chứ không phải ngắn hạn – và truyền thống như thế nào. Đây là chiều thứ năm mà Hofstede thêm vào sau khi tìm ra mối liên kết mạnh mẽ với triết học Nho giáo của các quốc gia châu Á. Từ đó dẫn tới cách cư xử hoàn toàn khác biệt so với các nền văn hóa phương Tây. Tại các quốc gia có điểm LTO cao, người ta quan trọng việc thực hiện các nghĩa vụ xã hội và tránh bị “mất mặt” trước đám đông. Các chiều cạnh này được áp dụng như
là các tiêu chí cơ bản để đánh giá VHDN của các công ty đa quốc gia và nghiên cứu so sánh các nền văn hóa kinh doanh dân tộc, quốc gia khác nhau.
1.2.2.3. Mô hình nghiên cứu các phương diện văn hoá của Trompenaars
Trompenaars (từng là sinh viên của Hofstede) và cộng sự của mình trong cuốn sách Lướt cùng các làn sóng văn hóa được ấn hành năm 1993 cho rằng nền văn hóa này tự phân biệt với các nền văn hóa khác bằng cách chọn những phương án giải quyết riêng đối với các tình huống khó xử. Đấy cũng là cơ sơ cho phương pháp nghiên cứu mà Trompenaars sử dụng là đưa ra các tình huống khó xử và các đáp án có thể để những thành viên đến từ các nền văn hóa khác nhau lựa chọn đáp án riêng của mình. ng cho rằng các khác biệt chủ yếu dựa trên 3 nhóm vấn đề:
Nhóm vấn đề phát sinh từ quan hệ giữa con người với con
người;
Con người với thời gian;
Con người với môi trường.
sau:
Từ ba nhóm vấn đề trên, ông đã đưa ra bảy phương diện VHDN như
Một là, tính phổ biến và tính cụ thể:
Tính phổ biến được thể hiện khi một tư tưởng, một thực tế nào đó được
áp dụng ở mọi nơi mà không hề có sự thay đổi điều chỉnh. Tính cụ thể được thể hiện khi một tư tưởng, một thực tế nào đó chỉ được áp dụng trong những trường hợp cụ thể nhất định và nó thường xuyên thay đổi trong những hoàn cảnh khác nhau.
Hai là, tính cá nhân và tập thể:
Cá nhân và tập thể là hai khía cạnh đã được Hofstede đề cập đến. Mặc dù cách tiếp cận hai khía cạnh này của Trompenaars có hơi khác nhưng ý nghĩa của nó hoàn toàn không có gì khác với các kết luận của Hofstede. Tính
cá nhân dùng để thể hiện những người chỉ quan tâm đến bản thân họ với tư cách là các cá nhân riêng biệt, còn tính tập thể dùng để diễn tả các hành vi của những người quan tâm đến bản thân họ với tư cách là thành viên của một nhóm.
Ba là, dễ biểu lộ và ít biểu lộ cảm xúc:
Những người ít biểu lộ tình cảm ra bên ngoài thường hành động một cách rất điềm tĩnh và luôn giữ được bình tĩnh trong các trường hợp. Ngược lại, những người dễ biểu lộ cảm xúc là những người rất khó kiềm chế tình cảm của mình. Họ thường biểu lộ tình cảm ngay lập tức. Những người dễ biểu lộ cảm xúc thường rất hay cười và nói to. Họ thường hành động rất nhiệt tình.
Bốn là, tính rõ ràng và không rõ ràng giữa công việc và cuộc sống cá nhân:
Những người sống trong nền văn hóa có tính rõ ràng thường chỉ chia s tình cảm của mình cho một số ít những người thân thiết. Họ phân biệt rất rõ đâu là những thông tin có thể và nên đưa ra công chúng và đâu là các thông tin nên giữ riêng cho các nhân. Ngược lại những người không rõ ràng thường khó phân biệt các thông tin nên đưa ra công chúng và các thông tin nên giữ cho cá nhân đó.
Năm là, sự thành đạt và nguồn gốc xuất thân:
Văn hóa quan tâm đến “sự thành đạt” là nền văn hóa trong đó con người được nhận biết dựa trên những thành tích và cố gắng trong công việc. Còn văn hóa theo “nguồn gốc xuất thân” thì con người được nhận biết dựa vào nguồn gốc xuất thân của họ. Các doanh nghiệp dựa vào “sự thành đạt” đánh giá rất cao những người vươn lên bằng nỗ lực cá nhân họ và đạt được thành tích cao trong cuộc sống, sự nghiệp.
Sáu là, quan niệm về thái độ với thời gian:
Bên cạnh các mối quan hệ giữa người với người, Trompenaars còn chỉ ra rằng, quan niệm của con người về thời gian cũng rất khác nhau giữa các nền văn hóa khác nhau. ng đã nhận ra hai sự khác nhau cơ bản đó là coi thời gian theo trình tự và coi thời gian là đồng thời. Một thái độ quan trọng khác đối với thời gian là nhấn mạnh tầm quan trọng quá khứ hay tương lai.
Bảy là, quan niệm của con người về không gian:
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về không gian và sự sở hữu của con người về không gian đó. Có bao biểu hiện khác nhau của các quan niệm về không gian đó là không gian:
Của riêng cá nhân: do đó con người thích và cần làm việc độc lập trong phòng kín và có chỗ làm việc độc lập.
Của cả cá nhân và tập thể: Nên cần có những chỗ sinh hoạt tập thể tại nơi làm việc và cũng cần có các khoảng riêng cho các cá nhân.
Của tập thể: Với quan điểm này thì không cần có chỗ làm việc riêng cho từng cá nhân. Mọi việc cần được bàn bạc và đưa ra tập thể. Do đó, chỉ cần chỗ làm việc chung cho mọi người trong doanh nghiệp, không cần chỗ làm việc riêng cho cá nhân cụ thể. (Phạm Đình Chính, 2015). Mô hình VHKD, VHDN của Trompenaars là sự kế thừa và phát triển mô hình lý thuyết của Hofstede, áp dụng hữu dụng nhất khi nghiên cứu so sánh các đặc điểm của VHDN cụ thể cũng như tìm kiếm các đặc trưng, sự khác biệt giữa các mô hình VHDN thuộc các quốc gia, dân tộc khác nhau.