Khái Niệm Trách Nhiệm Đạo Đức Trong Hoạt Động Khoa Học, Công Nghệ


Vận dụng quan điểm của Luật khoa họccông nghệ Việt Nam (2013)

[122] về hoạt động khoa học, công nghệ, ở mục 2.2, luận án đã kết luận hoạt động khoa học, công nghệ tựu trung ở hoạt động nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ vào đời sống và sản xuất.

Có thể khẳng định, tự do trong hoạt động khoa học, công nghệ là khả năng của các chủ thể hoạt động trong lĩnh vực khoa học, công nghệ hiểu được ranh giới pháp luật cho phép và ranh giới đạo đức cho phép để các chủ thể ấy có thể hành động với mục tiêu vì con người, vì sự phát triển chung của toàn nhân loại. Như vậy, tự do trong hoạt động khoa học, công nghệ không đơn thuần là trạng trái tinh thần - trạng thái tự do của các nhà khoa học trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học mà cao hơn thế nó chính là quá trình mà các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu tìm ra được đúng quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng để từ đó đề ra được những giải pháp (phát minh) nhằm ứng dụng vào thực tiễn. Có nghĩa là, những khám phá, phát minh khoa học của các nhà khoa học được ứng dụng vào thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm tính đúng đắn của chúng chính là tự do chân chính của hoạt động khoa học, công nghệ.

Nếu trên đây chúng tôi đã khẳng định tự do không bao giờ là giá trị tuyệt đối, theo đó, thì tự do trong hoạt động khoa học, công nghệ cũng có giới hạn, giới hạn này do nhiều yếu tố quy định.

Trong xã hội, tự do trong hoạt động khoa học, công nghệ được biểu hiện ra thành những quy định của xã hội cho phép và tạo điều kiện cho các nhà khoa học được tự do nghiên cứu, tự do ứng dụng các thành quả nghiên cứu khoa học đến đâu, trong phạm vi nào.

2.2.3. Khái niệm trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ

Về trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ, như đã tìm hiểu ở mục 2.1.2 của Luận án. Trách nhiệm đạo đức được khẳng định là


hình thức đích thực nhất của trách nhiệm. Đó là thái độ, hành vi của chủ thể trước một vấn đề nào đó trong xã hội và đặc biệt là trước lương tâm của chính chủ thể ấy. Đó là sự lo âu, căng thẳng, day dứt của người “mang trách nhiệm”, bởi họ quan tâm đến những hậu quả do mình gây cho mình và cho xã hội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 171 trang tài liệu này.

Thái độ này biểu hiện ở việc thực thi nghĩa vụ đạo đức, tức là tuân thủ các quy chuẩn mực xã hội - những nguyên tắc đã được xã hội thừa nhận, qui định hành vi quan hệ của con người, nhờ đó họ tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và với tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã hội.

Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ là thái độ, hành vi, nhận thức của các chủ thể hoạt động trong lĩnh vực này. Đó là trách nhiệm đạo đức của nhà khoa học trong quá trình nghiên cứu khoa học của mình. Đó là trách nhiệm đạo đức của các chủ thể trong ứng dụng các thành quả nghiên cứu khoa học vào trong thực tiễn đời sống. Sự thiếu trách nhiệm thể hiện rõ nhất ở hành vi của các cá nhân, tổ chức sử dụng các sản phẩm khoa học, công nghệ lạc hậu, không còn phù hợp với tiêu chuẩn sống của con người để duy trì và phát triển sản xuất nhằm thu lợi cho mình, gây ra những hệ lụy cho xã hội. Sau trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức sử dụng khoa học, công nghệ, cần phải kể đến trách nhiệm của nhà nước trong quản lý hoạt động khoa học, công nghệ.

Vấn đề tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ và bài học đối với Việt Nam hiện nay - 9

Kết cấu của trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ:

Một là, trách nhiệm đạo đức của nhà khoa học trong nghiên cứu khoa học. Đó không chỉ là thái độ, nhận thức mà quan trọng còn là hành vi của các nhà khoa học trước những khám phá, tìm tòi, phát hiện… và trước những hệ quả là kết quả nghiên cứu của họ, đặt trong mối quan hệ với toàn bộ sự sống, sự phát triển của xã hội loài người. Như vậy, trách nhiệm đạo đức luôn có thể


hiện diện trong mỗi bước của quá trình nghiên cứu khoa học. Thậm chí, trách nhiệm ấy còn hiện diện trong cả những kết quả là hệ quả của việc ứng dụng các nghiên cứu trên vào thực tiễn đời sống.

Hai là, trách nhiệm đạo đức của các tổ chức, cá nhân trong việc ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống. Trách nhiệm này đòi hỏi các tổ chức, cá nhân khi sử dụng công nghệ cần đảm bảo không gây ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên và sự tồn tại của chính bản thân con người. Yêu cầu trên đòi hỏi các tổ chức, cá nhân đó cần ưu tiên trong đầu tư các công nghệ mới, thiết bị mới, sản phẩm thân thiện với môi trường, sử dụng tiết kiệm nguồn nguyên vật liệu, năng lượng, tìm kiếm các vật liệu mới trong sản xuất, để hạn chế rác thải ra môi trường… Và điều quan trọng hơn cả là công nghệ được sử dụng phải đảm bảo không làm tổn hại đến chính sự tồn tại của loài người.

2.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ

Khi tìm hiểu vấn đề tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ, trước hết, chúng ta cần trả lời cho câu hỏi: đạo đức và khoa học, công nghệ quan hệ với nhau như thế nào? Bởi đây là cơ sở để tìm hiểu các vấn đề đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ, trong đó có vấn đề tự do và trách nhiệm.

Như đã thấy, hiện tượng kỹ thuật thu hút được sự quan tâm sâu sắc của các nhà triết học. Và điều đó không phải là ngẫu nhiên: sự tác động của kỹ thuật đến con người đang gây ra những quan ngại sâu sắc nhất. Song lẽ nào con người lại khước từ bản thân mình trong kỹ thuật? Phải chăng con người không thể khắc phục được sức mạnh ma quái của kỹ thuật? Nhân có những vấn đề này mà triết học về kỹ thuật đã phát triển cách tiếp cận hợp nhất đề tài về kỹ thuật với hệ vấn đề đạo đức học. Tư tưởng ở đây hiển nhiên là: trước những mối nguy hiểm đe dọa mình, con người không thể buông lơi sự giám sát về mặt đạo đức đối với hoạt động kỹ thuật. Chúng ta


không nhận thấy sự trái ngược nào trong các lý giải hoạt động kỹ thuật về mặt đạo đức.

Song cũng cần thấy rằng, sau khi quan tâm đến kỹ thuật từ phương diện đạo đức, các nhà triết học bị lâm vào một tình thế nan giải. Thoạt nhìn thì không thể hiểu được tại sao lại có thể đánh giá một “tấm bê tông” về phương diện đạo đức. Do vậy, nhiệm vụ ở đây là phải làm sáng tỏ sự cần thiết của thành tố đạo đức trong hoạt động kỹ thuật của con người. Giải quyết vấn đề này, chúng tôi quan tâm đến những suy ngẫm của một số nhà triết học kiệt xuất là những người đã nêu ra các cách tiếp cận thú vị với việc giải quyết vấn đề về phương diện đạo đức của kỹ thuật. Phải chăng kỹ thuật và đạo đức học cần phải cấu thành một cặp không tách rời?

Theo chúng tôi, quan niệm mang tính biểu tượng về kỹ thuật có những ưu điểm nhất định trong việc lý giải bản chất của kỹ thuật. Phù hợp với quan điểm của các đại diện nổi tiếng của chủ nghĩa biểu tượng (như các nhà triết học Nga Xô Viết trước đây A. Belưy và A. Losev), chúng tôi hiểu biểu tượng là một ký hiệu phức tạp của nội dung hợp lý, cũng như của nội dung hình ảnh - tư tưởng [xem 1, tr.36-74]. Kỹ thuật là tồn tại mang tính biểu tượng của con người. Điều này có nghĩa rằng các giả tượng kỹ thuật được lý giải dựa trên những giá trị. Điều này đang thực sự được tiến hành và thực sự là có thể.

Con người “hiện diện” trong kỹ thuật nhờ những giá trị của mình. Vì những giá trị này không giống nhau, nên kỹ thuật thể hiện ra với con người là một cái mang tính hai mặt. Con người đem lại tính đa dạng về mặt đạo đức cho kỹ thuật, vì bản thân con người cũng đa dạng, kể cả hai mặt. Cấu trúc “con người + kỹ thuật” không bao giờ nằm ở phía bên kia cái thiện và cái ác. Heidegger không lý giải bản chất của hoạt động kỹ thuật của con người, nó được quy định bởi định hướng giá trị của con người. Heidegger không tin tưởng thể chế giá trị mà dường như không có khả năng biểu thị đúng bản tính


của con người. Cái gọi là những giá trị sinh thái không cho phép con người khai thác tự nhiên một cách tuỳ tiện.

Như vậy, cần phải đặc biệt quan tâm đến những phương diện giá trị của kỹ thuật. Với mục đích ấy thì mỗi lần đều có thể phân tích tỉ mỉ các khoa học kỹ thuật khác nhau - từ kỹ thuật điện tử cho đến ngành hang không vũ trụ - nhờ tách biệt chính xác những giá trị nào đó và những đánh giá gắn liền với chúng. Cần lưu ý rằng nhóm các nhà công nghệ nổi tiếng người Đức đã xây dựng những chỉ dẫn về đánh giá kỹ thuật trên phương diện giá trị [xem 169, tr.334-363], và chúng ta có thể sử dụng kết quả nghiên cứu của họ.

Bảy giá trị được đưa ra để đánh giá các giả tượng kỹ thuật với tư cách những giá trị cơ bản: khả năng hoàn thành chức năng, an toàn, khả năng sinh lợi kinh tế, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, bảo vệ sức khoẻ của con người, chất lượng sinh thái, thúc đẩy cá nhân và xã hội phát triển. Dễ dàng nhận thấy rằng chỉ có hai giá trị có tính chất kỹ thuật thuần tuý là: hoàn thành chức năng và an toàn. Hai giá trị - khả năng sinh lợi kinh tế và góp phần nâng cao phúc lợi xã hội - cần được quy về lĩnh vực kinh tế. Với tư cách giá trị, sức khoẻ có quan hệ với lĩnh vực y tế. Chất lượng sinh thái là đối tượng quan tâm của sinh thái học. Sự phát triển của cá nhân và xã hội với tư cách giá trị được bàn luận trong hệ thống khoa học xã hội và nhân văn. Như vậy, sự lý giải kỹ thuật về mặt giá trị là cái phụ thuộc vào những giá trị của các khoa học kỹ thuật, kinh tế học, y học, sinh thái học, các khoa học xã hội và nhân văn. Điều này cho thấy sự lý giải sản phẩm kỹ thuật được tiến hành dựa trên những giá trị nào.

Trong sự vận động và phát triển của mình, các hình thái ý thức xã hội phản ánh các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động này làm cho mỗi hình thái ý thức mang tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội. Đây là vấn đề mang tính quy luật. Về điều này, Ph. Ăngghen viết rằng: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, v.v… đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh


tế” [27, tr.271]. Điều này đòi hỏi chúng ta không thể giải thích sự xuất hiện, vận động và phát triển của một hình thái ý thức xã hội này từ một hình thái ý thức xã hội khác một cách giản đơn. Song, cũng không được đơn giản hóa các mối quan hệ qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội từ nguyên nhân duy nhất

- nguyên nhân kinh tế.

Theo quan niệm của triết học mácxít, giữa khoa học, kỹ thuật và công nghệ với đạo đức có mối quan hệ gắn bó, không tách rời nhau. Trong mối quan hệ đó, khoa học, kỹ thuật và công nghệ cùng với những thành tựu của nó luôn là cơ sở và nền tảng cho sự hình thành, phát triển các giá trị đạo đức thực sự, chân chính của con người.

Mối quan hệ giữa đạo đức với khoa học là một trong những vấn đề (xã hội và triết học) quan trọng của cuộc sống con người. Xã hội càng phát triển, khoa học càng đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhân loại càng cần đến đạo đức. Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, bất kỳ tri thức khoa học nào cũng có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến đạo đức, ngay cả khoa học tự nhiên. Quan hệ giữa khoa học với đạo đức là quan hệ giữa cái chân với cái thiện. Lý tưởng của khoa học và lý tưởng của đạo đức là thống nhất với nhau. Trong cái thiện (đạo đức) đã bao hàm cái chân (chân lý khoa học) và trong cái chân lý đã bao hàm cái thiện. Khoa học chân chính không thể thù địch với đạo đức tiến bộ. Không một phát minh khoa học chân chính nào không đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người.

Tri thức khoa học còn giúp cho chủ thể đạo đức nhận thức, lựa chọn, đánh giá đúng đắn các giá trị đạo đức. Đến lượt mình, chính ý thức đạo đức, đặc biệt là lý tưởng đạo đức, đóng vai trò không nhỏ tạo ra một trong những động lực của sự phát triển khoa học, của sự tìm tòi chân lý.

Tuy nhiên, giữa tiến Bộ Khoa học với tiến bộ đạo đức không phải bao giờ cũng phát triển song hành theo hướng đồng thuận với nhau. Trình độ nhận thức khoa học của một thời đại cụ thể, của những nhóm xã hội nhất định và


của các cá nhân có thể không trùng khớp với trình độ nhận thức về đạo đức của họ. Không ít trường hợp trình độ nhận thức khoa học cao nhưng trình độ nhận thức đạo đức thấp. Trường hợp này sẽ gây nên nhiều tổn thất cho cá nhân và xã hội.

Ngược lại với quan điểm mácxít đó, vẫn có những ý kiến phủ nhận mối quan hệ giữa khoa học, kỹ thuật và công nghệ với đạo đức. Một số nhà triết học tư sản như B. Rátxen, Karnai... cho rằng, khoa học, kỹ thuật không thể giải quyết được vấn đề mà các giá trị đạo đức đặt ra. Theo họ, đạo đức và khoa học là không thể dung hòa với nhau. Hoặc như ý kiến khác thì cho rằng, khoa học hiện đại không đủ khả năng làm người dẫn đắt các lý tưởng và hình thành đạo đức, bởi đạo đức luôn phụ thuộc vào sự điều khiển của các cơ cấu chính trị. Phủ định mối quan hệ giữa khoa học, kỹ thuật với đạo đức, về thực chất, là chối bỏ các nguyên tắc đạo đức, không thừa nhận sự phản ánh của các chuẩn mực đạo đức trong đời sống xã hội. Quan điểm đó có thể dẫn tới hai khả năng: một là, cản trở, kìm hãm sự hình thành của các giá trị đạo đức mới, hai là, xóa nhòa ranh giới giữa những mục đích khác nhau (có lợi hay có hại cho con người) của các phát minh khoa học.

Phân tích thực trạng xã hội phương Tây dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, Jams Goldsmith một học giả người Mỹ

- đặt vấn đề rằng, tại sao bước nhảy vọt vĩ đại nhất của loài người hướng về sự thịnh vượng vật chất lại dẫn đến sự đổ vỡ nghiêm trọng về mặt xã hội? Và tại sao kỷ nguyên vĩ đại nhất về thành tựu khoa học - kỹ thuật lại làm hư hại những điều kiện sống trên Trái đất? Theo ông, khoa học và công nghệ vốn có sức mạnh và hữu ích, song sự phát triển của nó lại đặt ra những vấn đề khác. Thành tựu phát triển khoa học mang lại những kết quả hữu ích, nhưng nó cũng có thể lại mang đến những hậu quả nguy hại, thậm chí có những trường hợp, mức độ nguy hại lại lớn hơn gấp nhiều lần so với cái lợi. Để khắc phục tình trạng đó, Jams Goldsmith cho rằng, khoa học phải được phát triển phù


hợp với sự phát triển của xã hội về đạo đức và không được phép tách khỏi những nhu cầu xã hội của các cộng đồng dân tộc. Ông viết: “Khoa học không được tách khỏi đạo đức... Khoa học phải phục vụ xã hội và là một bộ phận của xã hội”. Rằng cũng như khoa học, công nghệ là “một công cụ hữu ích. Nhưng nếu không được kiểm soát bởi những giá trị căn bản hơn, chúng có thể phá huỷ sự ổn định xã hội... nuốt trôi nền văn minh của chúng ta”. Từ đó, ông đi tới kết luận rằng, khoa học và công nghệ không những phải phục vụ những nhu cầu thực sự của xã hội, mà còn “phải nhạy bén với những yêu cầu về luân lý, đạo đức và xã hội” [86, tr.212-217].

Thực tế đã chứng minh rằng sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại cùng với việc nó đang từng bước trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp không chỉ làm thay đổi vị trí của con người trong quá trình sản xuất, mà hơn thế, còn làm thay đổi căn bản chính nền sản xuất xã hội. Do đó, khoa học, công nghệ cũng tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của đạo đức, làm thay đổi thang giá trị và những nguyên tắc chi phối hoạt động của con người, của xã hội.

Sự tác động của khoa học và công nghệ đến sự phát triển của đạo đức mang tính hai mặt. Dựa vào những tri thức, vào sự hiểu biết khoa học (vốn ngày càng phong phú và đa dạng) và thông qua công nghệ, con người với tư cách là những chủ thể đạo đức, một mặt, nhận thức, đánh giá và lựa chọn đúng đắn các giá trị đạo đức, mặt khác, xác định được các biện pháp, cách thức ứng xử hợp lý nhằm điều chính hành vi của mình trong đời sống đạo đức xã hội. Xu hướng chung của sự phát triển khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại là hướng tới phục vụ con người ngày càng tốt hơn, hiệu quả hơn. Đó vừa là mục tiêu, vừa là chuẩn mực đạo đức cao nhất của sự phát triển khoa học, công nghệ.

Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa là bất cứ ở đâu, bất kỳ lúc nào sự tác động của khoa học, kỹ thuật và công nghệ đối với đạo đức cũng diễn ra theo

Xem tất cả 171 trang.

Ngày đăng: 10/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí