Những Nghiên Cứu Về Mối Quan Hệ Giữa Đạo Đức Và Khoa Học, Công Nghệ


dung chi cho các hoạt động khoa học, công nghệ. So với yêu cầu phát triển, khoa học và công nghệ nước ta còn chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy đất nước phát triển, chưa gắn kết chặt chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Khi phân tích yếu tố tiến bộ công nghệ ảnh hưởng như thế nào đến việc hình thành giá trị và chuẩn mực đạo đức mới, tác giả Nguyễn Văn Phúc nhấn mạnh quan điểm của mình về công nghệ trong bài viết “Về tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới” như sau: Công nghệ “không chỉ là các phương tiện vật chất, thiết bị kỹ thuật và gắn liền với chúng là phương thức, quy trình vận hành, mà còn bao hàm những yêu cầu tương ứng về tổ chức, thiết chế quản lý, điều phối, tiếp thị và sau cùng là con người với kỹ năng, năng lực vận hành công nghệ” [112]. Từ đó, những thành tố của công nghệ, đòi hỏi và tạo điều kiện cho sự phát triển lý trí của con người. Quan điểm này sẽ bổ sung cho luận án một cách nhìn toàn diện hơn về khái niệm công nghệ.

Tác giả Nguyễn Thái Sơn trong bài "Quan hệ giữa cách mạng khoa học

- công nghệ hiện đại đối với con người hiện nay" [128], đã cho rằng, khoa học là hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội, tư duy, tích lũy trong quá trình lịch sử. Khoa học là cuộc tổng kết sự phát triển lâu dài của tri thức. Mục đích của khoa học là phát hiện ra những quy luật khách quan của các đối tượng và giải thích chúng. Khoa học là bộ phận quan trọng nhất của văn hóa tinh thần, là hiện tượng mang tính lịch sử, xã hội xuất hiện trong đời sống con người, là một hình thái ý thức xã hội quan trọng. Còn công nghệ là tổng thể nói chung các phương pháp gia công, chế tạo, làm thay đổi trạng thái, tính chất, hình dáng nguyên vật liệu hay bán thành phẩm sử dụng trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh.

Tác giả của luận án Tiến sĩ Triết học nêu trên đã lập luận, giữa khoa học và công nghệ có nhiều đặc điểm khác nhau, song chúng cũng có quan hệ rất


chặt chẽ. Có thể hình dung cụm thuật ngữ khoa học - công nghệ chính là sự tương tác, xâm nhập, gắn bó, hòa trộn lẫn nhau giữa khoa học và công nghệ, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển.

Đặc biệt, khái niệm hoạt động khoa học, công nghệ, được "Luật khoa học và công nghệ Việt Nam" [122] trực tiếp nêu ra. Luật này là sự bổ sung, phát triển luật khoa học và công nghệ năm 2000, trong luật khoa học và công nghệ Việt Nam năm 2013 các thuật ngữ như: khoa học, công nghệ, nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ… được giải thích ngắn gọn, cơ bản nhất. Đặc biệt, hoạt động khoa học, công nghệ cũng được quy định gồm những hoạt động nào. Đây cũng là một căn cứ để luận án tham khảo khi tìm hiểu về khái niệm hoạt động khoa học, công nghệ là hoạt động như thế nào?

Trong "Hướng dẫn điền phiếu thu thập thông tin về nghiên cứu và phát triển năm 2012" của Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc gia thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ [22], có định nghĩa về “nghiên cứu và phát triển”, qua đó hướng dẫn này đã gián tiếp đưa ra định nghĩa về hoạt động khoa học, công nghệ là: những hoạt động có tính hệ thống liên quan chặt chẽ với việc tạo lập, thúc đẩy, truyền bá và ứng dụng tri thức khoa học và công nghệ trong mọi lĩnh vực khoa học và công nghệ. Các lĩnh vực này bao gồm các hoạt động như nghiên cứu và phát triển, giáo dục và đào tạo về khoa học và công nghệ và các dịch vụ khoa học và công nghệ. Cách hiểu này khá rộng, luận án sẽ kế thừa để đi đến cách hiểu về hoạt động khoa học, công nghệ cụ thể hơn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 171 trang tài liệu này.

1.1.3. Những nghiên cứu về mối quan hệ giữa đạo đức và khoa học, công nghệ

Tập thể tác giả Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong "Giáo trình đạo đức học" [68] nhấn mạnh rằng, bản thân khoa học đã chứa đựng những lý tưởng đạo đức cao cả. Chính những lý tưởng đạo đức đã đóng vai

Vấn đề tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ và bài học đối với Việt Nam hiện nay - 4


trò không nhỏ làm thành một động lực của sự phát triển khoa học và công nghệ. Nhưng khi nhân loại bước vào cuộc cách mạng khoa học, công nghệ lần thứ ba thì giữa tiến Bộ Khoa học và tiến bộ đạo đức lại đặt ra nhiều mâu thuẫn, thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học. Việc giải quyết mâu thuẫn ấy chỉ có thể diễn ra trong điều kiện tìm ra được nguyên nhân, nguồn gốc của những bất cập để có thể điều chỉnh, giải quyết chúng vì sự phát triển chung của xã hội loài người.

Trong bài viết bài viết “Khoa học, công nghệ và đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường” của Nguyễn Đình Hòa [64] cho rằng các nước chậm phát triển không thể không tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó khoa học và công nghệ có vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên, những tác động của nền kinh tế thị trường đến hoạt động khoa học, kỹ thuật và công nghệ bao gồm cả những yếu tố tích cực và tiêu cực. Những tác động tiêu cực đối với sự phát triển xã hội, trong đó có lĩnh vực đạo đức là không thể tránh khỏi. Trong mối quan hệ đó, “khoa học, kỹ thuật và công nghệ cùng với những thành tựu của nó luôn là cơ sở, là nền tảng cho sự hình thành, phát triển các giá trị đạo đức thực sự, chân chính của con người” và “sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại cùng với việc nó đang từng bước trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp không chỉ làm thay đổi vị trí của con người trong quá trình sản xuất, mà hơn thế, còn làm thay đổi căn bản chính nền sản xuất xã hội. Do đó, khoa học, công nghệ cũng tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của đạo đức, làm thay đổi thang giá trị và những nguyên tắc chi phối hoạt động của con người, của xã hội” [64]. Bài viết không trực tiếp bàn về mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ. Nhưng, bài viết đã gián tiếp minh chứng cho luận án rằng mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ là mối quan hệ có cơ sở lý luận từ quan hệ giữa khoa học, công nghệ và đạo đức.


Tác giả Nguyễn Văn Phúc trong bài viết “Về tính quy luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới” đã giới thiệu ở trên, còn phân tích những nhân tố tác động đến quá trình hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới. Trong đó, nhân tố tiến bộ công nghệ được tác giả nhìn nhận có vai trò lớn trong sự nghiệp hiện đại hóa đất nước. Dưới tác động của kinh tế thị trường hiện nay, tiến bộ công nghệ vừa tạo điều kiện để các giá trị đạo đức truyền thống phát huy, vừa đặt ra những thách thức không nhỏ đối với chúng. Quan điểm của tác giả đã gián tiếp khẳng định quan hệ giữa đạo đức và khoa học, công nghệ khi đi vào thực tiễn có nhiều vấn đề cần quan tâm [112]. Bài viết củng cố phần nào cơ sở lý luận để tác giả luận án nghiên cứu vấn đề tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ. Bởi vì, tiến bộ công nghệ chính là kết quả hoạt động lâu dài của hoạt động khoa học, công nghệ. Còn tự do và trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm đạo đức là hệ vấn đề mà đạo đức không thể không quan tâm.

Cũng tác giả Nguyễn Văn Phúc trong bài “Quan niệm của C. Mác về đạo đức và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp xây dựng nền đạo đức mới ở Việt Nam hiện nay” [113] đã giới thiệu ở trên, còn cho rằng tự do là những phạm trù thuộc đạo đức, do vậy, tác giả đã phân tích quan điểm của C. Mác về đạo đức, ẩn chứa đằng sau đó là vấn đề xây dựng những hệ thống đạo đức. Tác giả chỉ ra rằng, theo C. Mác tiến bộ đạo đức không trùng khít với sự tăng trưởng kinh tế - kỹ thuật. Sự tăng trưởng kinh tế - kỹ thuật trong những điều kiện nhất định có thể dẫn đến sự thoái bộ trên một số phương diện nào đó của đạo đức. Do vậy, trước những yêu cầu của hội nhập quốc tế, thúc đẩy mạnh mẽ việc áp dụng tiến Bộ Khoa học - công nghệ, nếu không lường trước chúng ta sẽ phải đối mặt với những nguy cơ suy thoái đạo đức. Đó là “sự gia tăng tính vô cảm, tính ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, tệ sùng bái vật chất, chủ nghĩa hư vô về giá trị, thói phô trương, hãnh tiến,… trong điều kiện kinh tế thị trường


gắn liền với việc đẩy nhanh áp dụng các tiến bộ công nghệ” [113]. Luận án hoàn toàn đồng ý với nhận định này của tác giả.

1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NỘI DUNG CỦA VẤN ĐỀ TỰ DO VÀ TRÁCH NHIỆM ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ

Vấn đề tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ nói riêng và hoạt động lao động, sản xuất của con người nói chung đang được sự quan tâm của toàn xã hội. Nhìn nhận tầm quan trọng của khoa học, công nghệ trong đời sống xã hội, nhờ có những tiến Bộ Khoa học, công nghệ mà con người ngày càng hiểu được thế giới vô hạn và từng bước giải phóng sức lao động, chuyển từ lao động chân tay sang sử dụng các phương tiện máy móc, lao động trí óc… Các ngành khoa học cũng đã cung cấp cho con người những tri thức mới như từng bước khám phá vũ trụ, khám phá thế giới tự nhiên, cung cấp kiến thức hữu ích cho con người. Trong hoạt động khoa học, công nghệ, vấn đề quan hệ giữa tự do và trách nhiệm đạo đức cũng đã được quan tâm nghiên cứu trong các công trình khác nhau mà tiêu biểu nhất có thể kể đến một số công trình như:

Hơn nửa thế kỷ trước tác giả Thomas Kuhn trong cuốn sách "Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học" [138], đã phân tích cấu trúc của các cuộc cách mạng khoa học, cấu trúc các cộng đồng, khoa học và sự phát triển của khoa học, đồng thời chứng minh các lý thuyết khoa học trong lịch sử thường không bị loại bỏ ngay khi chúng bộc lộ sai sót, chúng chỉ được thay thế khi có các lý thuyết mới đúng hơn xuất hiện. Theo Kuhn, nhìn chung có thể chia sự phát triển của khoa học ra làm ba thời kỳ: thời kỳ tiền khoa học, thời kỳ “khoa học chuẩn định”, thời kỳ “khủng hoảng” (khi những bất thường trong khoa học được tích tụ ngày càng nhiều). Vào thời điểm này, một “mẫu hình mới” sẽ ra đời và được chấp nhận. Đó chính là “cách mạng khoa học”. Có nghĩa là Kuhn muốn chứng minh cách mạng khoa học là điểm gián đoạn


trong sự phát triển liên tục của khoa học. Dựa vào cách lập luận của Kuhn, có thể phần nào lý giải được sự ra đời của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại - mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển vượt bậc của khoa học và công nghệ.

Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường Việt Nam ra mắt bạn đọc cuốn "Khoa học và công nghệ thế giới - Kinh nghiệm và định hướng chiến lược" [20]. Cuốn sách này đã nêu rõ những nguyên nhân thành bại của các nước trong quá trình phát triển những thập niên gần đây, cũng như những quyết tâm và nỗ lực của mỗi nước trong việc đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ vào thập niên đầu của thế kỷ mới. Các thành tựu đạt được của hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển nhờ đầu tư cho phát triển khoa học cũng được đề cập trong cuốn sách trên. Các thành tựu đó như là minh chứng cho tự do của con người trong hoạt động khoa học, công nghệ. Bởi vậy, cuốn sách là tài liệu quan trọng để tác giả luận án có những số liệu sát thực cho thực trạng về tự do trong hoạt động khoa học, công nghệ trên thế giới, cũng như ở Việt Nam.

Trong tác phẩm "Tất yếu và tự do - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn"

[143] (đã được đề cập ở mục 1.1), tác giả Vương Thị Bích Thủy cũng chỉ ra rằng chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn con người mới có tự do. Bên cạnh đó, tác giả cũng giới thiệu một số vấn đề về nhận thức và vận dụng quan điểm của triết học Mác - Lênin về tất yếu và tự do trong công cuộc đổi mới ở đất nước ta hiện nay. Điều này được thực hiện trong ba nội dung cơ bản là: tính tất yếu và tự do trong việc lựa chọn con đường phát triển của đất nước; trong việc phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại và quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội. Tác phẩm là gợi ý sâu sắc để luận án đưa ra hệ giải pháp cho vấn đề nghiên cứu của mình, khi kế thừa giải pháp của tác giả nhằm làm cho con người có được tự do chân chính.


Tác giả Nguyễn Văn Việt trong bài viết “Vấn đề định hướng giá trị đạo đức trong nghiên cứu và ứng dụng y - sinh học hiện đại” [163], đã nêu rõ, những kỹ thuật mới của y - sinh học hiện đại có thể giúp con người nâng cao khả năng chẩn đoán y học đối với một số căn bệnh hiểm nghèo có liên quan đến di truyền và sử dụng để tạo ra nhiều loại protein khác nhau. Thậm chí, với kỹ thuật gen nhiều loại lương thực, thực phẩm giàu các loại vitamin thiết yếu hoặc những loại cây chứa sẵn một số kháng sinh, vắcxin ngừa bệnh... Tác giả cho rằng, chính trong những ứng dụng mang lại lợi ích to lớn đó, y - sinh học hiện đại cũng đang tiềm ẩn bên trong nó những mạo hiểm không hề nhỏ. Ngày nay, ngay cả những người ít quan tâm đến vấn đề môi trường cũng biết rằng, môi trường sống của con người đang bị hủy hoại, trái đất đang nóng dần lên, mưa axít, nước biển bị ô nhiễm, lỗ thủng tầng ôzôn, nạn khô hạn và bão lụt… Song, không nhiều người biết được những hệ quả đó có thể xuất phát từ những hiểm họa tiềm tàng trong các công nghệ y - sinh học hiện đại. Bài viết như lời cảnh tỉnh cho con người về những hậu quả của sự phát triển khoa học, công nghệ trong thời đại ngày nay, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học, công nghệ khá nhạy cảm đó là lĩnh vực y - sinh học hiện đại. Qua đây, tác giản đã gián tiếp nói lên giới hạn tự do của con người trong hoạt động khoa học, công nghệ. Đúng như tiêu đề, bài viết đã nhấn mạnh đến việc định hướng giá trị đạo đức trong một lĩnh vực hoạt động của khoa học, công nghệ. Đây là gợi ý để luận án đưa ra giải pháp để nâng cao trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ ở Việt Nam hiện nay.

Tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn trong bài “Kinh tế thị trường và trách nhiệm xã hội” [35], đã chỉ rõ, một mặt, nền kinh tế thị trường là môi trường thuận lợi cho việc tìm kiếm lợi nhuận. Mặt khác, ý thức trách nhiệm xã hội trong nền kinh tế thị trường còn đặt ra bài toán việc tìm kiếm lợi nhuận làm sao cho chính đáng, phù hợp với chuẩn mực pháp lý, chuẩn mực đạo đức. Tác giả cho rằng:


Nền kinh tế thị trường ngày nay đã tỏ rõ những ưu thế của nó trong đời sống hiện thực. Nó không những góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy tiến Bộ Khoa học và Công nghệ, mà còn có khả năng tác động nhiều mặt đến sự phát triển xã hội. Kinh tế thị trường kích thích khả năng độc lập, sáng tạo, sự năng động và tính hiệu quả trong các hoạt động của con người [35].

Tuy nhiên, không thể không nhận thấy rằng, dù đã có không ít những sự thay đổi theo chiều hướng tích cực thì kinh tế thị trường, do tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh luôn dẫn đến sự phân hóa khắc nghiệt, cho nên trong quá trình vận hành vẫn không thể hoàn toàn loại trừ sự tàn nhẫn, sự phi nhân tính, sự vô trách nhiệm trong những tính toán ích kỷ hoặc sự vụ lợi vô độ. Do đó, ý thức về trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại giúp cho người ta thấy rằng, thị trường thế giới rộng lớn đầy tiềm năng trên phạm vi toàn cầu là môi trường vô cùng thuận lợi để tìm kiếm lợi nhuận không chỉ cho riêng mình, mà còn cho cả quê hương, đất nước và cho sự phát triển, sự tiến bộ chung của xã hội.

Tác giả Nguyễn Thái Sơn trong bài "Quan hệ giữa cách mạng khoa học

- công nghệ hiện đại đối với con người hiện nay" [128], cho rằng, con người là chủ thể của cách mạng khoa học - công nghệ, tuy nhiên điều đó chưa có nghĩa là con người làm chủ được khoa học, công nghệ hiện đại. Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại cũng có tác động hết sức sâu sắc, rộng lớn đến con người trên nhiều phương diện. Thứ nhất, nó tác động làm môi trường tự nhiên biến đổi tích cực, hoặc tiêu cực; Thứ hai, sự tác động đó còn gây ra những biến đổi đa chiều đối với hoàn cảnh xã hội như thúc đẩy nhanh nhịp điệu sống, thay đổi ngành nghề, tạo ra sự phong phú, đa dạng trong phong cách, lối sống, tạo ra nhiều mâu thuẫn xã hội và gây ra những biến động trong hệ thống chính trị và kiến trúc thượng tầng; Thứ ba, ảnh hưởng đến đời sống đạo đức, tinh thần của con người. Sự phát triển như vũ bão của khoa học,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 10/03/2023