Một Số Vấn Đề Đặt Ra Trong Phát Triển Con Người Toàn Diện Ở Việt Nam


Sau Hiến pháp năm 1946, các quyền con người không ngừng được mở rộng thêm ở các Hiến pháp sửa đổi; đặc biệt Hiến pháp năm 2013 có một chương riêng về "Quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân"; ngoài ra hơn 100 luật, bộ luật có liên quan đến quyền con người được ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung. Đảng và Nhà nước Việt Nam trên thực tế đã áp dụng nhiều biện pháp cụ thể để bảo đảm quyền của người dân trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội. Với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát,

dân thụ hưởng”, “đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” [12], người dân tham được gia góp ý vào tất cả các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, tham gia trực tiếp vào mọi hoạt động của đất nước thể hiện bằng cách tham gia qua Quốc hội, qua các đoàn thể chính trị - xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng.

Thành tựu phát triển con người toàn diện trên phương diện văn hóa, giáo dục

Phát triển con người toàn diện ở Việt Nam thường được xem xét gắn với lĩnh vực văn hóa. Nhận thức rò vai trò to lớn của văn hóa, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách trên quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững đất nước. Đảng ta xác định xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện gắn kết chặt chẽ với “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [12, tr.48] và “gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”, “phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh” [12, tr.49].

Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng, những năm qua, chúng ta đã có nhiều đổi mới, sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa, nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Chúng đã đã đạt được nhiều thành tựu về phát triển con người toàn diện trên phương diện văn hóa mà một trong những thành tựu đó là đẩy mạnh xây


dựng môi trường và đời sống văn hoá lành mạnh. Chất lượng, hiệu quả của hoạt động văn hóa đã được nâng lên gắn với các phong trào như “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, “Cán bộ, công chức, viên chức thực hiện văn hóa công sở”, “Chung tay xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh; xây dựng môi trường, đời sống văn hóa lành mạnh và ứng xử văn hóa trong hệ thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Việc duy trì và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống, văn hóa đặc sắc, phong phú của các vùng miền và các dân tộc thiểu số được Đảng và Nhà nước quan tâm. Việc đấu tranh, loại trừ các sản phẩm văn hoá độc hại, định hướng xóa bỏ các tập tục văn hóa lạc hậu, tiêu cực trong đời sống xã hội đạt nhiều kết quả tốt đẹp. Đặc biệt các ngành công nghiệp văn hóa như điện ảnh, xuất bản, thời trang, mỹ thuật, nhiếp ảnh, nghệ thuật biểu diễn, tổ chức sự kiện… phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây, mang lại những sản phẩm văn hóa có giá trị cho người dân. Những thành tựu trong lĩnh vực văn hóa đã góp phần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện cả văn, thể, mỹ. Ngoài ra, văn hóa truyền thống, văn hóa các dân tộc thiểu số được chú trọng, đầu tư phát triển, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp bảo tồn, khẳng định giá trị, bản sắc của văn hóa Việt Nam. Đời sống văn hóa tinh thần, quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân cũng được khôi phục, tôn trọng. Hoạt động giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa với khu vực và quốc tế được mở rộng, từng bước phát triển theo chiều sâu, mang tính ổn định, bền vững, góp phần giới thiệu, quảng bá, tôn vinh văn hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

Trên phương diện giáo dục, giáo dục toàn diện để phát triển con người Việt Nam cả đức, trí, thể, mỹ luôn là tư tưởng xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta. Trong bối cảnh mới của sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Đảng ta xác định cần “tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao” [12]. Với vai trò quốc sách hàng đầu, lĩnh vực giáo dục và đào tạo không chỉ đơn thuần phục vụ cho phát triển nguồn nhân lực,


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.

lực lượng sản xuất, mà nhiệm vụ hàng đầu phải nhằm phát triển con người toàn diện về vật chất và tinh thần, về trí tuệ, tài năng, thể chất, đạo đức, lối sống và khát vọng sáng tạo, cống hiến. Đảng và Nhà nước đặc biệt ưu tiên cho phát triển con người toàn diện trên phương diện giáo dục và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Khung pháp lý cho đổi mới giáo dục và đào tạo ngày càng hoàn thiện. Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018 và Luật Giáo dục năm 2019. Trong đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học đã tháo gỡ những điểm nghẽn trong việc giao quyền tự chủ cho các trường đại học; Luật Giáo dục 2019 đã làm rò tính liên thông, phân luồng trong giáo dục… Chất lượng giáo dục từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học được giữ vững và nâng cao. Chúng ta đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học đạt kết quả tốt. Tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành Chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN; kết quả Chương trình Đánh giá kết quả học tập của học sinh tiểu học các nước Đông Nam Á (SEA PLM) năm 2019 cho thấy chất lượng giáo dục tiểu học của Việt Nam đứng vào tốp đầu của các nước ASEAN. Kết quả giáo dục ở bậc phổ thông ngày càng được nâng lên; đặc biệt học sinh Việt Nam tham dự các kỳ thi Ô-lim-pích khu vực và quốc tế luôn đạt nhiều giải thưởng cao. Giai đoạn 2016-2020, 174 lượt học sinh Việt Nam tham dự kỳ thi Ô-lim-pích các môn văn hóa và đạt những kết quả cao, với 170 giải thưởng. Số Huy chương vàng mà học sinh Việt Nam đạt được trong giai đoạn 2016-2020 nhiều gấp đôi giai đoạn 2011-2015. Ở bậc giáo dục đại học, tự chủ trong giáo dục đại học có nhiều đột phá; phân quyền và giao quyền tự chủ cho các trường đại học được mở rộng. Các trường đã đẩy mạnh hoạt động, số lượng các chương trình mở mới tăng trong khi quy mô gia tăng hợp lý. Các chỉ số nghiên cứu, công bố quốc tế cũng tăng mạnh. Năm 2020, cả nước có 17.028 bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế trong danh mục Scopus, ISI, tăng hơn năm 2019 là 4.462 bài, trong đó, số bài báo quốc tế trong các cơ sở giáo dục đại học là 16.346 bài. Năm 2019, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt


Vấn đề phát triển con người toàn diện trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc và ý nghĩa tham khảo đối với Việt Nam - 17

Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới; có 11 cơ sở giáo dục đại học Việt Nam nằm trong danh sách 500 trường đại học hàng đầu Châu Á [31]. Bên cạnh đó, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên có nhiều chuyển biến tích cực. Trong Chương trình giáo dục phổ thông mới, nội dung giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống tiếp tục được chú trọng, thực hiện thông qua tất cả các môn học, hoạt động giáo dục. Môn Đạo đức ở bậc tiểu học, Giáo dục công dân ở bậc trung học đã được tăng cường cả nội dung và thời lượng.

Nhờ những nỗ lực trong lĩnh vực giáo dục, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận về phát triển nguồn nhân lực, được Ngân hàng Thế giới ghi nhận đứng thứ 38/174 nền kinh tế về chỉ số vốn nhân lực; trong đó, thành phần kết quả giáo dục của Việt Nam đứng thứ 15, tương đương với các nước như Hà Lan, Niu Di-lân, Thụy Ðiển.

Thành tựu phát triển con người toàn diện trên phương diện xã hội

Đảng ta xác định “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển”, “Thực hiện tốt chính sách xã hội, đảm bảo an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người… nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân” [12, tr.48]. Tăng trưởng kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội của con người đặt ra trong thực tế. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ưu tiên đầu tư cho phát triển con người ở các lĩnh vực như chăm sóc sức khỏe, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, ưu đãi người có công, trợ giúp xã hội; Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hoá, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội; thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ,


công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam. Cụ thể như sau:

Một là, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh là không quên quyền lợi của bất kỳ một cộng đồng, một giai tầng xã hội nào (hay không bỏ lại ai ở phía sau). Do đó, bất bình đẳng theo thước đo hệ số bất bình đẳng thu nhập (GINI) về tiêu dùng có tăng, nhưng ở mức tương đối thấp trong khu vực ASEAN. Việt Nam cũng đã và đang thực hiện tốt bình đẳng giới. Với giá trị Chỉ số Phát triển Giới là 0,997, Việt Nam đứng thứ 65 trong số 162 quốc gia và là quốc gia cao nhất trong năm nhóm quốc gia. Hai là, trong lĩnh vực việc làm, nhiều giải pháp tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động được thực hiện. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở thành thị có xu hướng giảm dần từ mức 4,5% năm 2010 xuống còn 3% năm 2020 [12]. Công tác dạy nghề cũng đạt được những kết quả quan trọng, số người được đào tạo nghề liên tục tăng. Tỷ lệ lao động qua đào tạo được cải thiện đáng kể từ 40% năm 2010 lên 65% năm 2020. Ba là, trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, Đảng và Nhà nước đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững và đã đạt những kết quả tích cực. Tỷ lệ hộ đói, nghèo đã giảm liên tục từ 30% năm 1992 xuống còn 8,3% năm 2004. Đến năm 2000, cơ bản xóa xong tình trạng đói kinh niên. Giai đoạn 2010-2020, tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh, từ 14,2% năm 2010 xuống còn 7% năm 2015 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015) và giảm từ 9,2% năm 2016 xuống dưới 3% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều) [12]. Bốn là, trong lĩnh vực y tế, mạng lưới khám, chữa bệnh trên toàn quốc được sắp xếp lại, hệ thống tổ chức y tế cơ sở được củng cố, đủ sức thực hiện chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân ngày một tốt hơn. Việt Nam được quốc tế đánh giá là một trong số ít quốc gia có mạng lưới y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới tận thôn, bản và đang là mô hình mà nhiều nước trên thế giới quan tâm, học hỏi kinh nghiệm.

Thành tựu phát triển con người toàn diện trên phương diện môi trường

Môi trường tự nhiên là điều kiện và phương tiện hoạt động sống của con người. Môi trường liên quan chặt chẽ và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc


sống, sức khoẻ và sự phát triển của con người. Quan điểm về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững đã được Đảng và Nhà nước ta khẳng định và đề cập trong một loạt các văn bản như: Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững 1991-2000, Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 (sửa đổi, bổ sung năm 2005), Chỉ thị 36 ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị khoá VIII, Nghị quyết số 41 của Bộ Chính trị khoá IX (15/11/2004), Luật bảo vệ môi trường năm 2005, Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (2006), Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến 2010 và định hướng đến năm 2020... Mới đây nhất, trong văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta đã đưa ra các chủ trương “chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ thiên tai”, “quản lý, khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên, chú trọng bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững” [12] nhằm thúc đẩy phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường. Thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị, nhận thức của cán bộ và nhân dân về bảo vệ môi trường đã được nâng cao hơn; hệ thống luật pháp, chính sách, thể chế bảo vệ môi trường đang tiếp tục xây dựng và hoàn thiện…

Trong những năm qua, công tác bảo vệ môi trường đạt nhiều kết quả tích cực, nguồn gây ô nhiễm được kiểm soát, chất lượng môi trường được cải thiện, công tác bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học đạt nhiều tiến triển, công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm trong việc gây ô nhiễm môi trường đạt nhiều kết quả tốt. Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, đến nay, trên cả nước có 250/280 (89%) khu công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung, 219/250 (87,6%) khu công nghiệp đã thực hiện đầu tư lắp đặt thiết bị quan trắc nước thải tự động, liên tục. Cả nước hiện có 276/698 (40%) cụm công nghiệp có báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc đề án bảo vệ môi trường; 115 cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung, trong đó 25/115 (21,7%) cụm công nghiệp có hệ thống quan trắc tự động nước thải. Tỷ lệ nước thải sinh hoạt được thu gom, xử lý trong trong giai đoạn 2016-2020 đã đạt 13%, tăng khoảng 5% so với năm 2010. Tỷ lệ chất thải rắn được thu gom xử lý cũng được tăng lên, tại khu vực nội thành của các đô thị trung bình đạt khoảng


92%, tại khu vực nông thôn trung bình đạt khoảng 66%.

4.1.2.2. Một số vấn đề đặt ra trong phát triển con người toàn diện ở Việt Nam

Bên cạnh những kết quả đạt được, chúng ta thấy vẫn còn nhiều vấn đề nổi cộm cần phải tập trung giải quyết nhằm đưa sự nghiệp xây dựng con người ở Việt Nam không ngừng tiến lên xứng tầm với một quốc gia trong giai đoạn tiến lên chủ nghĩa xã hội như hiện nay.

Một số vấn đề đặt ra trong phát triển con người toàn diện trên phương diện kinh tế

Thứ nhất, những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong lĩnh vực kinh tế, tuy nhiên, thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao, chưa ổn định; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế chậm, kết quả đạt được hạn chế; quy mô nền kinh tế còn nhỏ; phương thức tăng trưởng chưa có thay đổi rò rệt, vẫn dựa nhiều vào tăng vốn đầu tư, lao động, các yếu tố đầu vào; tốc độ nâng cao trình độ khoa học và công nghệ của nền kinh tế còn chậm; chất lượng nguồn nhân lực thấp, chuyển biến chậm; nội lực nền kinh tế chưa đủ mạnh, hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn chế. Trong bối cảnh mới, kinh tế đất nước đứng trước nhiều thách thức lớn, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế vẫn tồn tại.

Thứ hai, mặc dù thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng, làm cải thiện chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam, song chỉ số tăng trưởng vì con người (GHR) lại có xu hướng giảm, cho thấy hiệu ứng tác động tích cực của tăng trưởng kinh tế đến phát triển con người yếu dần, thành quả tăng trưởng đã không có sự lan tỏa tích cực đến việc cải thiện các năng lực của con người và cơ hội của họ. Hiệu ứng tác động của tăng trưởng kinh tế đến phát triển con người của giai đoạn 2001 - 2017 chỉ bằng 66,62% so với giai đoạn 1990 - 2000 [27].

Thứ ba, xu hướng tác động của tăng trưởng kinh tế đến việc cải thiện các năng lực trí lực và thể lực của con người ngày càng thấp do thành quả của tăng trưởng kinh tế chưa được sử dụng để đầu tư tương xứng cho phát triển giáo dục và y tế. Trong giai đoạn 2010 - 2017, tốc độ tăng chỉ số thu nhập bình quân đạt


1,19%/năm, trong khi đó, tốc độ tăng của chỉ số tuổi thọ và giáo dục lần lượt chỉ đạt 0,35%/năm và 1,02%/năm, thấp hơn so với một số nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan và Lào [47]. Con số này cho thấy thành quả tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chỉ đủ để cải thiện năng lực tài chính phục vụ cho việc bảo đảm các nhu cầu vật chất, chưa đủ sức để lan tỏa mạnh cho các lĩnh vực phi vật chất như văn hóa, giáo dục và y tế chăm sóc sức khỏe.

Thứ tư, chính sách tăng trưởng hiện nay chủ yếu có lợi cho các vùng động lực, các nhà đầu tư lớn, nhà đầu tư nước ngoài, trong khi đó người nghèo, vùng nghèo hay các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ không có điều kiện được tham gia trực tiếp vào việc tạo nên thành quả tăng trưởng. Ngoài ra, do nhóm yếu thế chưa được chia sẻ nhiều thành quả của tăng trưởng kinh tế, nên chỉ số HDI ở bộ phận này còn rất thấp. Do đó, việc huy động mọi tầng lớp dân cư trong xã hội tham gia công cuộc tăng trưởng kinh tế để hưởng lợi trực tiếp từ thành quả tăng trưởng cũng như việc phân phối hợp lý thành quả tăng trưởng giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng, miền trong cả nước sẽ tạo ra một động thái tích cực và công bằng về tiến bộ xã hội cho con người.

Tất cả những vấn đề nêu trên đều tác động tiêu cực đến việc phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Một số vấn đề đặt ra trong phát triển con người toàn diện trên phương diện chính trị

Thứ nhất, việc cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là mục tiêu của Đảng ta trong việc phát triển con người trên phương diện chính trị. Tuy nhiên, hiện nay trong phương hướng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chủ yếu mới tập trung vào xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp quyền của Nhà nước mà hầu như chưa chú ý đúng mức đến việc xây dựng thể chế pháp quyền của con người, của công dân. Vì thế, để tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ, phải bảo đảm trên thực tế thể chế pháp quyền của con người, của công dân và của Nhà nước trong thể chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung ở Việt Nam; cần thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa,

Xem tất cả 193 trang.

Ngày đăng: 10/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí