quyền làm chủ và vai trò tự quản của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Thứ hai, nhận thức về dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa còn hạn chế, chưa đầy đủ và hệ thống, chưa lý giải và làm sáng tỏ kịp thời nhiều vấn đề do thực tiễn đặt ra, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ luật, kỷ cương, chưa coi trọng đúng mức phát triển các hình thức dân chủ trực tiếp. Hiện nay, vẫn có một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức về dân chủ còn phiến diện, nhất là thực hành dân chủ trong Đảng, dẫn đến tình trạng lạm quyền, bao biện, làm thay, độc đoán, gia trưởng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; còn một bộ phận vi phạm Quy chế Dân chủ ở cơ sở, không tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ ba, hệ thống pháp luật Việt Nam chưa đồng bộ, không thống nhất, thường xuyên điều chỉnh, gây khó khăn cho các cơ quan thi hành pháp luật và nhân dân, ảnh hưởng đến việc thực hành dân chủ trong xã hội. Thêm vào đó, một số văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý phát huy tốt hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân chưa được xây dựng kịp thời.
Một số vấn đề đặt ra trong phát triển con người toàn diện trên phương diện văn hóa, giáo dục
Về văn hóa, sự phát triển văn hóa hầu như chưa theo kịp sự vận động nhanh chóng của thời cuộc và những yêu cầu đặt ra của sự nghiệp đổi mới. Thành quả trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng, chưa đủ tầm vóc để tác động có hiệu quả xây dựng con người và văn hóa lành mạnh, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống. Thành quả đó cũng chưa tương xứng và chưa vững chắc với tiềm năng và nguồn lực vốn có của dân tộc. Sự phát triển văn hóa chưa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu, hình thức; có khoảng cách lớn về mức độ hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và giữa các tầng lớp nhân dân. Môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần
phong mỹ tục; còn lúng túng trong việc chỉ đạo xây dựng con người văn hóa và môi trường văn hóa, các phong trào văn hóa ở nhiều nơi triển khai thiếu thực chất, hình thức, chưa tạo ra được môi trường văn hóa tin cậy, đảm bảo sự phát triển toàn diện của con người. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ.
Về giáo dục, giáo dục và đào tạo chưa phát triển ngang tầm quốc sách hàng đầu. Hệ thống giáo dục hiện nay vẫn trong tình trạng phân tán, nhiều chủ thể quản lý; việc phân cấp trong quản lý chưa triệt để; tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm chưa toàn diện. Việc xây dựng xã hội học tập và học suốt đời còn nhiều bất cập cả về nhận thức, chính sách và triển khai thực hiện… dẫn đến chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước. Nhân tố con người và điều kiện hoạt động khoa học trong lĩnh vực giáo dục chưa được nhận thức đầy đủ và đầu tư tương xứng.
Một số vấn đề đặt ra trong phát triển con người toàn diện trên phương diện xã hội
Có thể bạn quan tâm!
- Hạn Chế Của Phát Triển Con Người Toàn Diện Trên Phương Diện Môi Trường
- Khái Quát Tình Hình Phát Triển Con Người Toàn Diện Ở Việt Nam
- Một Số Vấn Đề Đặt Ra Trong Phát Triển Con Người Toàn Diện Ở Việt Nam
- Xây Dựng Nền Văn Hóa Xã Hội Chủ Nghĩa, Tạo Môi Trường Văn Hóa Tốt Đẹp Cho Phát Triển Con Người Toàn Diện
- Xây Dựng Môi Trường Văn Hóa Tốt Đẹp, Tạo Điều Kiện Cho Phát Triển Con Người Toàn Diện
- Vấn đề phát triển con người toàn diện trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc và ý nghĩa tham khảo đối với Việt Nam - 21
Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.
Thứ nhất, hiện tượng bất bình đẳng trong xã hội ngày một gia tăng. Đi cùng với tăng trưởng của Việt Nam là sự gia tăng khoảng cách về bất bình đẳng thu nhập. Chính sự gia tăng chênh lệch về thu nhập trong nội vùng cũng như sự gia tăng chênh lệch thu nhập của các nhóm kinh tế xã hội ở nông thôn là nguyên nhân dẫn đến việc gia tăng bất bình đẳng thu nhập. Mặc dù tất cả các nhóm thu nhập đều có cải thiện đáng kể trong giai đoạn vừa qua, nhưng tính không đồng đều của mức độ gia tăng cho thấy có sự chênh lệch trong thu nhập trung bình trên đầu người giữa các ngành, thành phần kinh tế, vùng, miền và nhóm xã hội. Bất bình đẳng thu nhập giữa các ngành thể hiện qua việc lao động có thu nhập cao chỉ tập trung ở một số ngành sử dụng ít lao động trong cơ cấu lao động xã hội, còn những ngành sử dụng nhiều lao động lại có mức thu nhập bình quân thấp. Bất bình đẳng thu nhập giữa các nhóm kinh tế - xã hội thể hiện qua chênh lệch giữa thu nhập trung bình trên đầu người của 20% hộ khá giả nhất với 20% hộ nghèo nhất. Bất
bình đẳng thu nhập của người dân giữa các vùng miền tương đối rò nét khi Đông Nam Bộ vẫn là vùng có mức tăng trưởng thu nhập cao hơn các vùng khác. Bất bình đẳng thu nhập giữa nông thôn và thành thị thể hiện qua việc thu nhập trung bình của người dân đô thị cao khoảng gấp hai lần thu nhập của người dân nông thôn, và mức chi tiêu chung của người dân đô thị cũng cao hơn khoảng gấp hai lần mức chi tiêu chung của khu vực nông thôn. Ngoài ra, Việt Nam vẫn phải đối mặt với những thách thức về bất bình đẳng giới. Việt Nam đứng ở vị trí thứ ba trên toàn cầu về tỷ số giới tính khi sinh (1,12), bạo lực đối với phụ nữ do bạn tình (34,4%) và phụ nữ có tài khoản trong các tổ chức tài chính hoặc nhà cung cấp dịch vụ tiền tệ (30,4%) [47].
Thứ hai, mặc dù Chính phủ đã nỗ lực trong giải quyết việc làm cho người lao động, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu việc làm của người trong đổ tuổi lao động. Hơn nữa, khủng hoảng kinh tế do tác động của đại dịch Covid-19 và chất lượng lao động hạn chế đã gây ra ra tình trạng thất nghiệp trên diện rộng, làm ảnh hưởng đến cuộc sống, thu nhập và sự phát triển của xã hội. Tình trạng thất nghiệp ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của người lao động, khiến cho đời sống bản thân người lao động và gia đình họ gặp khó khăn, con cái họ sẽ khó khăn khi đến trường, sức khoẻ họ sẽ giảm sút do thiếu kinh tế để bồi dưỡng, để chăm sóc y tế… chất lượng cuộc sống giảm sút đáng kể. Tình trạng thất nghiệp gia tăng cũng gây mất ổn định trật tự xã hội. Ngoài ra, tình trạng thất nghiệp còn gây lãng phí tài nguyên lao động dồi dào của nước ta.
Thứ ba, kết quả giảm nghèo đa chiều chưa thực sự bền vững và chưa đồng đều, nguy cơ tái nghèo còn cao. Hiện tượng bất bình đẳng trong công tác giảm nghèo còn tồn tại: Nghèo đói tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống; Tốc độ giảm nghèo của nhóm đồng bào dân tộc thiểu số chậm hơn so với mức giảm tỷ lệ nghèo chung; Mặt bằng giáo dục, trình độ dân trí của đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn còn khoảng cách đáng kể so với người Kinh, Hoa; Mức độ thụ hưởng dịch vụ và chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe
của người nghèo, vùng nghèo nói chung và đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng vẫn còn thấp hơn đáng kể so với các nhóm dân số khác, vùng khác…
Thứ tư, chỉ số sức khỏe gắn với mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, mục tiêu phát triển bền vững và chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh và khả năng tiếp cận dịch vụ y tế có sự chênh lệch khá lớn giữa các vùng, miền và các tuyến y tế. Y tế cơ sở, huyện, xã chưa được đổi mới căn bản về bộ máy, về hoạt động, về nguồn nhân lực, về cơ sở hạ tầng và cơ chế tài chính, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Chất lượng dịch vụ y tế và chất lượng nhân lực y tế cần phải nâng cao hơn nữa, đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng cao hơn của toàn dân, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh bùng phát. Bộ máy tổ chức phong cách quản trị y tế và tư duy tài chính đã đổi mới nhưng chưa quyết liệt…
Một số vấn đề đặt ra trong phát triển con người toàn diện trên phương diện môi trường
Hoạt động bảo vệ môi trường, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên thiếu hiệu quả; ứng phó với biến đổi khí hậu còn triển khai chậm, chưa rò ràng về đường hướng, giải pháp, hiệu quả đầu tư thấp, hạn chế về công nghệ. Hiệu quả quản lý khai thác, sử dụng tài nguyên, nhất là tài nguyên đất đai chưa cao. Tình trạng ô nhiễm môi trường ở tất cả các hệ sinh thái, từ rừng, biển, đến đô thị, nông thôn kéo dài, ảnh hưởng xấu đến điều kiện sống của người dân, nhiều lúc, có nơi ở mức độ nghiêm trọng, tác động tiêu cực đến đời sống của một bộ phận nhân dân và gây tác hại lâu dài đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ô nhiễm đất, không khí, nguồn nước, âm thanh đã gây ra những thiệt hại hết sức to lớn về sức khỏe con người và hệ sinh thái, đòi hỏi rất nhiều nỗ lực để khắc phục. Số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo, vụ việc khiếu kiện đông người liên quan đến ô nhiễm môi trường ngày càng tăng lên. Mặc dù Việt Nam có thành tích tốt về độ che phủ rừng và ứng phó với thiên tai, nhưng lại nằm trong nhóm ba nước kém nhất về lượng khí thải carbon trên một đơn vị GDP, suy thoái đất, chỉ số danh sách đỏ, và việc sử dụng chất dinh dưỡng phân bón cho mỗi ha đất trồng trọt [47].
4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN CỦA TRUNG QUỐC CÓ Ý NGHĨA THAM KHẢO ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Có thể nói rằng, những năm vừa qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển con người toàn diện về các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa giáo dục, xã hội, môi trường. Cùng với đó, những vấn đề mà Việt Nam phải đối mặt cũng vô cùng đa dạng và phức tạp. Để khắc phục những hạn chế nhằm thực hiện phát triển con người Việt Nam toàn diện trong tình hình mới, ngoài chủ động đưa ra những chủ trương, đường lối, biện pháp đúng đắn, việc tham khảo kinh nghiệm quốc tế, trong đó có kinh nghiệm của Trung Quốc, đất nước có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam cả về chế độ chính trị lẫn trình độ phát triển, là cần thiết. Những kinh nghiệm trong phát triển con người toàn diện sau đây của Trung Quốc cũng gợi mở rất nhiều cho Việt Nam trong việc đưa ra những giải pháp nhằm phát triển con người Việt Nam toàn diện phù hợp với điều kiện hiện nay.
4.2.1. Kiên trì quan điểm “lấy con người làm gốc”, coi con người là lực lượng cơ bản quyết định tương lai, vận mệnh của Đảng và đất nước
Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng, sự ủng hộ của người dân không chỉ quyết định tương lai, vận mệnh của một đảng, chế độ chính trị mà còn quyết định phương hướng và sự phát triển của một đất nước. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đoàn kết và lãnh đạo người dân Trung Quốc hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ mới, thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, xóa bỏ chế độ phong kiến chuyên chế tồn tại hàng nghìn năm trên đất nước Trung Quốc. Việc đất nước Trung Quốc thành lập vào năm 1949 đã cho phép Đảng Cộng sản Trung Quốc cầm quyền trên toàn bộ đất nước. Đây không chỉ là một chế độ thay thế một chế độ khác, mà là một sự thay đổi mang ý nghĩa lịch sử, trong đó hàng trăm triệu người được làm chủ đất nước, là biểu tượng chứng tỏ địa vị làm chủ của nhân dân
Kiên trì địa vị thống trị của nhân dân, kiên định lập Đảng vì dân, thực hiện mục đích cơ bản là hết lòng phục vụ nhân dân là những yêu cầu cần thiết để giữ vững và phát triển chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Đại hội XIX Đảng Cộng
sản Trung Quốc nhấn mạnh: “Nhân dân là chủ thể sáng tạo lịch sử, là lực lượng căn bản quyết định tiền đồ vận mệnh của Đảng và đất nước”. Thực tiễn đã chứng minh Đảng Cộng sản Trung Quốc đã giữ vững và ngày càng củng cố được địa cầm quyền của mình là do Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn dựa vào nhân dân; Đảng Cộng sản Trung Quốc từ nhân dân mà ra, vì nhân dân phục vụ, sức mạnh của Đảng là ở nhân dân; quần chúng nhân dân là cội nguồn sức mạnh của đảng, là nền tảng của mọi thắng lợi.
4.2.2. Kiên trì quan điểm “lấy nhân dân làm trung tâm”, luôn hết lòng phục vụ nhân dân, luôn hết mình vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân
Lập trường nhân dân là lập trường chính trị căn bản của Đảng Cộng sản Trung Quốc, và nó là một dấu ấn quan trọng giúp phân biệt một đảng theo chủ nghĩa Mác với các đảng khác. Điều lệ đảng đã xác định rò: Đảng Cộng sản Trung Quốc đại diện cho lợi ích căn bản của đông đảo nhân dân Trung Quốc. Đảng Cộng sản Trung Quốc kiên trì tư duy phát triển lấy nhân dân làm trung tâm, coi đó là điểm khởi đầu và điểm kết thúc của việc quản lý Đảng, quản lý đất nước, phản ánh đầy đủ sứ mệnh ban đầu của Đảng là mang lại hạnh phúc cho nhân dân và phục hưng dân tộc Trung Hoa.
Đảng Cộng sản Trung Quốc coi việc phục vụ nhân dân và mang lại lợi ích cho nhân dân là thành tựu chính trị quan trọng nhất. Tư tưởng phát triển lấy nhân dân làm trung tâm là cốt lòi trong tư duy của các thế hệ lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Kiên trì tư tưởng phát triển lấy con người làm trung tâm là thể hiện lý tưởng, niềm tin, bản chất, mục đích, sứ mệnh ban đầu của Đảng, đồng thời là sự tổng kết sâu sắc quá trình đấu tranh và kinh nghiệm thực tiễn của Đảng. “Kiến nghị Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm lần thứ 13 của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc” được thông qua tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XVIII nhấn mạnh: “Phải kiên trì tư tưởng phát triển lấy nhân dân làm trung tâm, lấy tăng cường hạnh phúc của nhân dân, thúc đẩy phát triển con người toàn diện là điểm xuất phát và đích đến của phát triển”. Ngày 24 tháng 11 năm 2016, phát biểu tại đợt học tập tập thể lần thứ 28 của Bộ Chính trị, Tập Cận Bình nhấn mạnh: “Phải kiên trì tư tưởng phát triển lấy nhân
dân làm trung tâm, đó là lập trường căn bản của kinh tế chính trị học chủ nghĩa Mác.” Đến Đại hội XIX, quan điểm lấy nhân dân làm trung tâm được đưa vào Báo cáo chính trị như sau: “Cần kiên trì vị trí chủ thể của nhân dân, kiên trì xây dựng Đảng vì lợi ích chung, Đảng cầm quyền vì dân, thực hiện tôn chỉ căn bản là toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân” [75]. Có thể nói rằng, việc nêu ra tư tưởng phát triển lấy nhân dân làm trung tâm là một bước tiến trong quá trình cải cách mở cửa, xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, là sự kế thừa và phát huy quan điểm duy vật lịch sử, là sự hoàn thiện của tư tưởng chỉ đạo xây dựng kinh tế - xã hội đi đôi với phát triển con người toàn diện.
Đảng Cộng sản Trung Quốc coi cải thiện đời sống và thực hiện phúc lợi cho người dân không chỉ là tiêu chí quan trọng để đánh giá thành tích chính trị mà còn là mục tiêu cơ bản của sự phát triển. Bảo đảm và cải thiện dân sinh trong quá trình phát triển là một bộ phận quan trọng của chiến lược giữ vững và phát triển chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Thành quả phát triển là do nhân dân tạo ra và nhân dân phải là người thụ hưởng, do đó xây dựng một xã hội khá giả toàn diện và dẫn dắt tất cả người dân hướng tới sự thịnh vượng chung là mục tiêu của Đảng và Chính phủ Trung Quốc.
4.2.3. Xây dựng nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện về thể chế đảm bảo cho sự phát triển toàn diện của con người
Trước hết, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng định giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng là bảo đảm cơ bản cho sự phát triển của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc; cần không ngừng tăng cường xây dựng Đảng cầm quyền, khẳng định Đảng phải quản lý Đảng, quản lý Đảng một cách nghiêm khắc, nâng cao năng lực và trình độ quản trị của Đảng, thích ứng với tình hình và biến động mới. Bên cạnh đó cần kiên định quan điểm nhân dân làm chủ. Trước hết, nguyên tắc cơ bản nhất của nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa là bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Chế độ đại hội đại biểu nhân dân bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, phản ánh chế độ chuyên chính dân chủ nhân dân. Để phát triển nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, cần không ngừng hoàn thiện chế độ đại hội đại biểu nhân dân,
làm phong phú các hình thức dân chủ, tăng cường mối liên hệ giữa đại biểu Đại hội đại biểu nhân dân với quần chúng nhân dân, mở rộng quyền tham gia chính trị có trật tự của công dân và bảo đảm quyền tham gia quản lý đất nước của nhân dân.
Thứ hai, tăng cường xây dựng chế độ hiệp thương dân chủ, thúc đẩy việc thể chế hóa, tiêu chuẩn hóa và quy trình hóa chế độ hiệp thương dân chủ. Những năm vừa qua, Trung Quốc ra sức thúc đẩy sự phát triển sâu rộng, nhiều cấp và ngày càng được thể chế hóa của chế độ hiệp thương dân chủ, và phối hợp thúc đẩy hiệp thương chính đảng, hiệp thương Đại hội Đại biểu nhân dân, hiệp thương Chính phủ, hiệp thương Hội nghị Chính trị Hiệp thương, hiệp thương tổ chức nhân dân, hiệp thương cơ sở và hiệp thương giữa các đoàn thể xã hội, làm phong phú nội dung và hình thức hiệp thương, mở rộng phương thức hiệp thương, phát huy vai trò quan trọng của Hội nghị Chính trị Hiệp thương trong hiệp thương dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, tuân thủ pháp quyền, hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc. Xây dựng chính phủ pháp quyền, tuân thủ điều hành theo quy định của pháp luật, nâng cao uy tín của Chính phủ và cán bộ thực thi pháp luật, tăng cường giám sát thực thi pháp luật, bảo đảm công lý tư pháp. Tăng cường tuyên truyền pháp luật, đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật, phổ biến kiến thức pháp luật, thực hiện mục tiêu người người học pháp luật, người người hiểu pháp luật, toàn dân chấp hành pháp luật.
4.2.4. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với phát triển con người
Kinh tế - xã hội ở đây để chỉ phương diện kinh tế trong xã hội, là tổng hợp các nhân tố kinh tế của xã hội, có thể hiểu là phương diện vật chất của xã hội, nội dung của nó tương đối phong phú, bảo gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tư liệu vật chất và hoạt động sản xuất… Phát triển kinh tế xã hội và phát triển con người toàn diện là tiền đề và cơ sở, thống nhất với nhau. Phát triển kinh tế xã hội và phát triển con người là một quá trình lịch sử; sự phát triển toàn diện của một cá nhân