Thời Hạn Bảo Hộ Quyền Tác Giả Và Những Hạn Chế Đối Với Quyền Tác Giả

thể được di chúc lại theo ý chí hoặc được để lại như tài sản cá nhân theo luật áp dụng đối với việc hưởng di sản thừa kế không theo di chúc [6].

Quyền tác giả có thể được chuyển nhượng toàn bộ hay một phần, bởi vậy người nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế sở hữu phần quyền được chuyển nhượng một cách độc lập với các quyền khác thuộc quyền tác giả. Điều 201 quy định: "Chủ sở hữu bất kỳ quyền riêng biệt cụ thể nào được hưởng trong phạm vi quyền đó tất cả sự bảo hộ và các biện pháp thi hành dành cho chủ sở hữu quyền tác giả".

Thứ tư, chủ sở hữu trong trường hợp tác phẩm hợp tuyển.

Theo điểm (c) Điều 201, quyền tác giả tác phẩm của từng tác phẩm riêng biệt trong một tác phẩm hợp tuyển là độc lập với quyền tác giả tác phẩm hợp tuyển như một tổng thể, và trước hết thuộc về các tác giả của các tác phẩm riêng biệt đó. Nếu không có sự chuyển nhượng rõ ràng quyền tác giả tác phẩm hoặc bất kỳ quyền nào thuộc quyền tác giả tác phẩm, thì chủ sở hữu quyền tác giả tác phẩm hợp tuyển chỉ giành được quyền nhân bản và phân phối tác phẩm riêng biệt trong hợp tuyển như là một phần của tác phẩm hợp tuyển đó, bất kỳ sự sửa đổi nào tác phẩm hợp tuyển đó, và bất kỳ sự tuyển tập nào tiếp theo trong cùng một chủng loại.

Quyền sở hữu quyền tác giả tác phẩm, hoặc bất kỳ quyền độc quyền nào thuộc quyền tác giả tác phẩm là độc lập với quyền sở hữu bất kỳ đối tượng vật chất thể hiện nào mà trên đối tượng vật chất đó tác phẩm được thể hiện. Chuyển nhượng quyền sở hữu bất kỳ đối tượng vật chất thể hiện tác phẩm nào kể cả bản sao hoặc bản ghi mà trên các đối tượng vật chất này tác phẩm được định hình lần đầu, bản thân nó không bao hàm việc chuyển nhượng quyền sở hữu bất kỳ quyền nào đối với tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả đã thể hiện trên đối tượng vật chất đó; cũng như trong trường hợp không có thoả thuận, chuyển nhượng quyền sở hữu quyền tác giả tác phẩm hoặc bất kỳ

quyền độc quyền nào thuộc quyền tác giả tác phẩm cũng không bao hàm việc chuyển nhượng các quyền sở hữu tài sản đối với bất kỳ đối tượng vật chất đã thể hiện tác phẩm nào.

Luật Quyền tác giả cũng quy định chi tiết thủ tục chấm dứt chuyển nhượng và cấp phép mà đã được tác giả thực hiện, thực hiện chuyển nhượng quyền sở hữu quyền tác giả, chứng nhận chuyển nhượng và các tài liệu. Các quy định này đã tạo thuận lợi cho chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt tác phẩm theo ý muốn của mình một cách thuận lợi nhất. Theo đó, bất kỳ sự chuyển nhượng quyền sở hữu quyền tác giả nào hoặc bất kỳ các tài liệu nào khác thuộc về quyền tác giả có thể được xác nhận tại Cục Bản quyền tác giả nếu các tài liệu này được nộp để xác nhận có chữ ký chuẩn của người thực hiện chuyển nhượng, hoặc nếu các tài liệu này được gửi kèm theo cam đoan hoặc công chứng rằng đó là bản sao thực của của các tài liệu đã được ký đó.


2.3. THỜI HẠN BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ NHỮNG HẠN CHẾ ĐỐI VỚI QUYỀN TÁC GIẢ

2.3.1. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.

Tác phẩm được sáng tạo lần đầu vào hoặc sau ngày 01/01/1978

Tác phẩm được sáng tạo (định hình lần đầu tiên dưới dạng hữu hình) vào ngày hoặc sau ngày 01/01/1978, được tự động bảo hộ từ thời điểm tác phẩm được sáng tạo và thông thường được bảo hộ suốt cuộc đời của tác giả, cộng thêm 70 năm sau khi tác giả qua đời. Trong trường hợp "tác phẩm chung được sáng tạo bởi hai hoặc nhiều tác giả mà không phải là tác phẩm làm thuê", thì thời hạn kéo dài 70 năm sau khi tác giả cuối cùng qua đời. Đối với các tác phẩm làm thuê, và các tác phẩm ký danh hay khuyết danh (trừ phi danh tính của tác giả được tiết lộ trong hồ sơ của Cục Bản quyền), thì thời hạn bảo hộ bản quyền sẽ là 95 năm kể từ khi công bố hoặc 120 năm từ khi được sáng tạo, tùy thuộc vào thời hạn nào ngắn hơn.

Vấn đề bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ - 6

Tác phẩm được sáng tạo lần đầu trước ngày 01/01/1978, nhưng chưa xuất bản hoặc đăng ký vào ngày đó

Những tác phẩm này tự động được luật pháp bảo vệ và có bản quyền cấp liên bang. Thời hạn bảo hộ bản quyền của những tác phẩm này nhìn chung được tính toán giống với các tác phẩm được sáng tạo vào hoặc sau ngày 01/01/1978: bảo hộ suốt đời tác giả cộng thêm 70 năm hoặc thời hạn 95/120 năm cũng được áp dụng đối với những tác phẩm này. Luật quy định trong bất kỳ hoàn cảnh nào, thời hạn bảo hộ tác phẩm thuộc loại này kết thúc trước ngày 31/12/2002, còn đối với các tác phẩm được xuất bản vào hoặc trước ngày 31/12/2002, thời hạn bảo hộ bản quyền sẽ không kết thúc trước ngày 31/12/2047.

Tác phẩm được sáng tạo lần đầu và được xuất bản hoặc đăng ký trước ngày 01/01/1978

Theo Bộ luật bản quyền có hiệu lực trước năm 1978, bản quyền có được vào ngày tác phẩm được xuất bản cùng với ký hiệu bản quyền, hoặc vào ngày đăng ký nếu tác phẩm được đăng ký dưới hình thức chưa xuất bản. Trong cả hai trường hợp trên, thời hạn bản quyền đầu tiên kéo dài 28 năm kể từ ngày có được bản quyền. Trong năm cuối cùng (năm thứ 28) của thời hạn đầu tiên, bản quyền đủ điều kiện để được gia hạn. Đạo luật Bản quyền năm 1976 đã nới rộng thời gian gia hạn từ 28 năm lên 47 năm đối với những bản quyền còn tiếp tục có hiệu lực vào ngày 01/01/1978, hoặc đối với những bản quyền trước năm 1978 được khôi phục theo Luật về các hiệp định của Vòng đàm phán U-ru-goay (URAA), khiến những tác phẩm này đủ điều kiện được hưởng tổng thời hạn bảo hộ là 75 năm. Công luật 105-298, được ban hành vào ngày 27/10/1998, đã nới rộng thêm nữa thời gian gia hạn của những bản quyền vẫn còn hiệu lực tới ngày đó thêm 20 năm nữa, nâng thời gian gia hạn lên 67 năm và tổng thời hạn bảo hộ là 95 năm.

Công luật 102-307, ban hành ngày 26/6/1992, đã sửa đổi Đạo luật Bản quyền năm 1976 nhằm quy định việc tự động gia hạn thời gian đối với những

tác phẩm có bản quyền trong khoảng thời gian từ ngày 01/01/1964 đến ngày 31/12/1977. Mặc dù thời gian gia hạn được tự động quy định, nhưng Cục Bản quyền không cấp giấy chứng nhận gia hạn cho những tác phẩm này trừ phi đơn xin gia hạn và lệ phí đã được gửi tới đăng ký tại Cục Bản quyền.

Công luật 102-307 quy định không bắt buộc phải đăng ký gia hạn. Do vậy, việc làm hồ sơ xin đăng ký gia hạn không còn là bắt buộc nếu muốn gia hạn thời gian bảo hộ bản quyền từ 28 năm đầu tiên tới giới hạn đầy đủ là 95 năm. Tuy nhiên, vẫn có một số thuận lợi nếu việc đăng ký gia hạn được thực hiện trong năm thứ 28.

Để có thêm thông tin chi tiết về việc gia hạn bản quyền và thời hạn bản quyền, đề nghị xem Thông tư số 15, Gia hạn bản quyền; Thông tư số 15a, Thời hạn bản quyền; và Thông tư số 15t, Gia hạn thời hạn bản quyền.Việc đăng ký này không phải là điều kiện đối với sự bảo hộ quyền tác giả. Hồ sơ yêu cầu nộp để đăng ký quyền tác giả: ngoại trừ quy định tại Khoản (c), các tài liệu phải nộp để đăng ký sẽ bao gồm:

- Đối với tác phẩm chưa công bố, một bản sao hoặc bản ghi hoàn chỉnh;

- Đối với tác phẩm đã công bố, hai bản sao hoặc bản ghi là phiên bản chuẩn;

- Đối với tác phẩm đã công bố lần đầu ngoài Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, một bản sao hoặc bản ghi như đã được công bố;

- Đối với một phần của một tác phẩm hợp tuyển, một bản sao hoặc bản ghi là phiên bản chuẩn của tác phẩm hợp tuyển đó.

Các bản sao hoặc bản ghi được nộp tới Thư viện Quốc hội theo Điều 407 có thể được sử dụng để hoàn thành việc nộp hồ sơ theo các quy định của Điều này nếu chúng được gửi kèm theo khoản lệ phí và đơn quy định, và kèm theo bất kỳ tài liệu xác định thêm nào khác mà cơ quan đăng ký có thể yêu cầu thông qua quy chế. Cơ quan đăng ký nêu trong quy chế việc quy định các yêu

cầu mà theo đó các bản sao hoặc bản ghi được giành cho Thư viện của Quốc hội theo Khoản (e) của Điều 407, ngoài việc nộp lưu chiểu có thể được sử dụng nhằm mục đích hoàn thành việc nộp hồ sơ theo các quy định của điều này.

2.3.2. Những hạn chế đối với quyền tác giả

Cũng như luật pháp của các nước khác, Luật bản quyền tác giả của Hoa Kỳ cũng quy định những hạn chế quyền của tác giả đối với các tác phẩm của mình. Luật Quyền tác giả của Mỹ quy định cụ thể các hạn chế đối với chủ sở hữu tác phẩm trong những trường hợp sau đây:

a) Hạn chế đối với các quyền độc quyền: sử dụng hợp lý. Không trái với các quy định tại Điều 106 và 106A, sử dụng được phép một tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả bao gồm các hình thức sử dụng thông qua hình thức sao chép dưới dạng bản sao hoặc bản ghi hoặc bởi bất kỳ một phương thức nào được quy định trong Điều này cho mục đích bình luận, phê bình, đưa tin hoặc giảng dạy (bao hàm cả việc sử dụng nhiều bản sao cho lớp học), nghiên cứu, học tập là không vi phạm quyền tác giả. Để xác định xem liệu việc sử dụng tác phẩm trong các trường hợp cụ thể có phải là sử dụng được phép hay không cần xem xét các nhân tố sau:

- Mục đích và đặc điểm của việc sử dụng, bao gồm việc sử dụng đó có tính chất thương mại không hay là chỉ nhằm mục đích giáo dục phi lợi nhuận;

- Bản chất của tác phẩm được bảo hộ;

- Số lượng và thực chất của phần được sử dụng trong tác phẩm được bảo hộ như là một tổng thể;

- Vấn đề ảnh hưởng của việc sử dụng đó đối với tiềm năng thị trường hoặc đối với giá trị của tác phẩm được bảo hộ;

Ghi nhận là một tác phẩm chưa công bố về bản chất không ngăn cản việc tìm kiếm để sử dụng hợp lý nếu việc tìm kiếm này được thực hiện dựa trên việc xem xét tất cả các nhân tố kể trên.

b) Hạn chế của các quyền độc quyền: tái bản nhằm mục đích lưu trữ và dùng trong thư viện

c) Hạn chế các quyền độc quyền: một số ngoại lệ đối với quyền trình diễn hoặc trình bày

Không trái với các quy định của Điều 106, các hành vi sau đây không phải là các hành vi vi phạm quyền tác giả:

- Trình diễn hoặc trình bày tác phẩm bởi các giảng viên và học sinh trong các khóa học có các hoạt động giảng dạy trực tiếp tại các tổ chức giáo dục phi lợi nhuận, tại các lớp học hoặc các nơi tương tự dành cho giảng dạy, trừ phi, đối với tác phẩm điện ảnh hoặc các tác phẩm nghe nhìn khác, việc trình diễn hoặc trưng bày các hình ảnh đơn lẻ, được đưa ra thông qua một bản sao không được tạo ra hợp pháp theo Điều luật này, và người có trách nhiệm đối với việc trình diễn đó biết hoặc có lý do để tin là bản sao đó đã không được tạo ra hợp pháp.

- Trình diễn một tác phẩm văn học phi sân khấu hoặc tác phẩm âm nhạc hoặc trình bày một tác phẩm, thông qua hoặc trong một buổi truyền thông;

- Trình diễn tác phẩm văn học phi sân khấu hoặc tác phẩm âm nhạc hoặc tác phẩm âm nhạc sân khấu có nội dung tín ngưỡng hoặc trình bày tác phẩm tại buổi làm lễ tại nơi thờ cúng hoặc tại các hội tín ngưỡng khác;

- Trình diễn tác phẩm văn học phi sân khấu hoặc tác phẩm âm nhạc khác hơn là trong một buổi truyền thông tới công chúng, không có bất kỳ một mục đích lợi nhuận thương mại trực tiếp hoặc gián tiếp nào và không có bất kỳ một sự thanh toán nào các khoản lệ phí hoặc sự bù đắp nào khác cho buổi trình diễn đối với bất kỳ một người trình diễn, người tổ chức của buổi biểu diễn đó;

- Cung cấp truyền sóng bao hàm trình diễn hoặc trình bày tác phẩm thông qua việc tiếp nhận công cộng truyền sóng đó trên một thiết bị thu thuộc loại thông thường được sử dụng trong các gia đình;

- Trình diễn một tác phẩm âm nhạc phi sân khấu bởi các cơ quan của Chính phủ hoặc tổ chức làm vườn hoặc nông nghiệp phi lợi nhuận trong các cuộc hội chợ hoặc triển lãm hàng năm được tổ chức bởi cơ quan hoặc tổ chức đó; ngoại lệ quy định tại Điều khoản này sẽ được mở rộng tới bất kỳ một nghĩa vụ nào đối với vi phạm quyền tác giả mà theo một cách nào khác xác định đối với cơ quan, tổ chức đó, theo trách nhiệm liên đới hoặc vi phạm liên đới, đối với buổi trình diễn bởi một người được nhượng độc quyền hoặc người tổ chức kinh doanh hoặc những người khác tại các hội chợ, triển lãm đó, nhưng không miễn trừ bất kỳ người nào kể trên khỏi nghĩa vụ đối với buổi trình diễn đó;

- Trình diễn tác phẩm âm nhạc phi sân khấu thông qua việc thành lập một nơi bán lẻ công khai đối với công chúng trên quy mô lớn không thu bất kỳ lệ phí vào cửa trực tiếp hoặc gián tiếp nào, tại nơi đó mục đích bán hàng của buổi trình diễn là để bán lẻ các bản sao và bản ghi của tác phẩm, và buổi trình diễn này không được truyền ra ngoài từ nơi mà cơ sở bán lẻ này được đặt và chỉ trong phạm vi chính nơi mà việc bán hàng được thực hiện;

- Trình diễn tác phẩm văn học phi sân khấu thông qua hoặc trong quá trình phát sóng được thiết kế đặc biệt và ưu tiên trực tiếp cho người mù hoặc những người tàn tật khác mà không thể đọc các tư liệu in một cách thông thường do nguyên nhân tàn tật của họ, hoặc những người điếc hoặc những người tàn tật khác mà không thể nghe các tín hiệu âm thanh kèm theo các tín hiệu hình ảnh trong một buổi truyền sóng, nếu việc trình diễn này được thực hiện không có bất kỳ một mục đích trực tiếp hoặc gián tiếp lợi nhuận thương mại nào và buổi truyền sóng của nó được thực hiện thông qua các phương tiện của:

(i) Cơ quan của Chính phủ;

(ii) Trạm truyền sóng giáo dục phi thương mại (như định nghĩa tại Điều 397 Điều luật số 47)...;

- Trình diễn một buổi duy nhất tác phẩm văn học sân khấu đã được công bố ít nhất 10 năm trước ngày trình diễn, thông qua hoặc trong quá trình

truyền sóng được thiết kế đặc biệt cho và ưu tiên trực tiếp đối với những người mù hoặc những người tàn tật khác mà không thể đọc các tài liệu in ấn thông thường do nguyên nhân tàn tật của họ, nếu việc trình diễn này được thực hiện không có bất kỳ một mục đích lợi nhuận thương mại trực tiếp hoặc gián tiếp nào và buổi truyền sóng của nó được thực hiện thông qua các phương tiện của trạm trung chuyển được phép nêu tại Khoản 8 (iii), với điều kiện là các quy định của điều khoản này sẽ không thể áp dụng nhiều hơn một buổi trình diễn của cùng một tác phẩm bởi cùng những người biểu diễn hoặc theo sự bảo trợ của cùng một tổ chức...


2.4. KÝ HIỆU VÀ ĐĂNG KÝ QUYỀN TÁC GIẢ


2.4.1. Ký hiệu quyền tác giả

Luật pháp Hoa Kỳ không còn yêu cầu sử dụng ký hiệu bản quyền, dù điều đó là có lợi. Tuy nhiên, do trước đó luật đã quy định như vậy, nên việc sử dụng ký hiệu bản quyền vẫn phù hợp đối với các tác phẩm cũ.

Đạo luật Bản quyền năm 1976 yêu cầu phải có ký hiệu bản quyền. Yêu cầu này được hủy bỏ khi Mỹ tham gia Công ước Bern, có hiệu lực vào ngày 01/3/1989. Mặc dù tác phẩm được xuất bản trước ngày đó không có ký hiệu bản quyền có thể thuộc sở hữu của công chúng Mỹ, nhưng Luật về các hiệp định của Vòng đàm phán U-ru-goay (URAA) khôi phục bản quyền cho một số tác phẩm nước ngoài được xuất bản lần đầu nhưng không có ký hiệu bản quyền. Để có thêm thông tin về những sửa đổi liên quan đến bản quyền trong URAA, đề nghị xem Thông tư số 38b.

Cục Bản quyền không phải là cơ quan quyết định việc liệu bản sao các tác phẩm được xuất bản lần đầu tiên với thông cáo về bản quyền trước ngày 01/3/1989, được phân phối vào hoặc sau ngày 01/3/1989, phải có ký hiệu bản quyền hay không.

Việc sử dụng ký hiệu bản quyền có thể quan trọng bởi vì nó thông tin cho công chúng biết tác phẩm được bảo hộ bản quyền, xác định chủ sở hữu

Xem tất cả 132 trang.

Ngày đăng: 10/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí